✨Bộ Lươn
Bộ Lươn hay bộ Cá mang liền (danh pháp khoa học Synbranchiformes), là một bộ cá vây tia trông khá giống cá chình nhưng có các tia vây dạng gai, chỉ ra rằng chúng thuộc về siêu bộ Acanthopterygii (= Euacanthomorphacea). Bộ này có khoảng 120 loài trong 13-14 chi thuộc 4 họ. Ngoại trừ 3 loài sống trong môi trường nước lợ ra thì tất cả đều sống trong môi trường nước ngọt thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu ở châu Phi, đông nam châu Á, Australia, Trung và Nam Mỹ.
Phân loại phát sinh chủng loài cá vây tia còn sinh tồn và hóa thạch năm 2024 của Near và Thacker mở rộng Synbranchiformes để bao gồm cả Anabantiformes (= Anabantoidei trong phân loại của các tác giả này).
Phân loại
Trước đây, bộ Lươn bao gồm 3 họ:
- Synbranchidae: (Nelson, Joseph S., 1994) Khoảng 23 loài lươn Macrotrema (Regan, 1912) Monopterus (Lacepède, 1800) Ophisternon (McClelland, 1844) Synbranchus (Bloch, 1795)
- Chaudhuriidae: (Nelson, Joseph S., 1994) Khoảng 10 loài lươn. Bihunichthys (Kottelat và Lim, 1994) Chaudhuria (Annandale, 1918) Chendol (Kottelat và Lim, 1994) Garo (Yazdani và Talwar, 1981) Nagaichthys (Kottelat và Lim, 1991) Pillaia (Yazdani, 1972)
- Mastacembelidae: (Nelson, Joseph S., 1994) Khoảng 87 loài cá chạch sông, chạch bông, chạch lửa, chạch lá tre. Theo đánh giá năm 2004 về họ Mastacembelidae, các phân họ trong họ này (Afromastacembelinae và Mastacembelinae) không có đủ cơ sở để tồn tại nên đã bị bác bỏ. Các chi của họ này gồm Macrognathus: (Lacepède, 1800) Mastacembelus Scopoli ex Gronow, 1777 ** Sinobdella
Một nghiên cứu phát sinh chủng loài năm 2008 cho thấy họ Indostomidae (trước đây xếp trong bộ Gasterosteiformes) lồng sâu trong bộ Synbranchiformes. Nghiên cứu của Betancur và ctv (2013) đã chuyển họ Indostomidae vào bộ Synbranchiformes, đặt bộ Synbranchiformes trong nhánh Anabantomorphariae cùng với bộ Anabantiformes (cá rô, cá quả) và phân chia bộ này như sau:
- Phân bộ Indostomoidei ** Họ Indostomidae: 1 chi, 3 loài.
- Phân bộ Synbranchoidei ** Họ Synbranchidae: 4 chi, 23 loài.
- Phân bộ Mastacembeloidei Mastacembelidae: 3 chi, 87 loài. Chaudhuriidae: 6 chi, 10 loài.
Mô tả
Những loài cá này có kích thước từ 20–150 cm (8–48 inch). Mặc dù chúng giống cá chình nhưng không có quan hệ họ hàng với Anguilliformes. Các xương tiền hàm hiện diện dưới dạng các xương riêng biệt và không nhô ra. Các khe mang của chúng phát triển kém, và các lỗ của chúng thường đơn lẻ, nhỏ, hợp lưu qua vú và giới hạn ở nửa dưới của cơ thể. Một loài, O. bengalense, thường xuất hiện ở các khu vực ven biển Đông Nam Á.
Sinh thái học
Một số loài được coi là loài cá thở vì khả năng thở của chúng nhờ các túi khí quản có mạch máu cao (hầu họng được biến đổi để thở không khí). Chúng thường chỉ hoạt động vào ban đêm.
Chúng ăn động vật không xương sống, đặc biệt là ấu trùng và cá.
Ít nhất một số loài thuộc họ Synbranchidae, tức là O.fernale, là dị hình giới tính. Con đực trưởng thành mọc một cái bướu ở đầu và con đực lớn hơn con cái. Những con cá này đẻ khoảng 40 quả trứng hình cầu mỗi lần đẻ. Trứng có đường kính từ 1,2 đến 1,5 mm (0,05 đến 0,06 in) và có một cặp sợi dài để bám dính vào nền. Sinh sản diễn ra trong mùa mưa kéo dài vài tháng, trong đó con cái có thể đẻ nhiều hơn một lần. Dữ liệu thu được từ việc nghiên cứu sự phát triển của con non và chiều dài của các cá thể đại diện trong quần thể cho thấy rằng chúng là một loài có tuổi thọ ngắn, trưởng thành trong năm đầu tiên, với một số cá thể sống sót đến mùa sinh sản thứ hai.