✨Bướu cổ

Bướu cổ

Bướu cổ (tiếng Anh: goitre) là tình trạng xuất hiện khối ở cổ do hiện tượng phì đại tuyến giáp (Thyroidmegaly). Tình trạng phì đại tuyến giáp có thể phát hiện thông qua thăm khám lâm sàng như quan sát, sờ nắn hoặc đôi khi có thể chỉ được phát hiện tình cờ qua siêu âm tuyến giáp (Thyroid ultrasonography).

Phần lớn nguyên nhân gây bướu cổ là lành tính như bướu cổ địa phương (Endemic goitre) gây nên bởi tình trạng thiếu hụt iodine (Iodine deficiency). Các biện pháp can thiệp bướu cổ khá đa dạng và phụ thuộc vào cơ chế bệnh sinh của từng trường hợp: điều trị nội khoa, đốt nhân giáp bằng sóng cao tần hoặc vi sóng, tiêm ethanol qua da (Percutaneous Ethanol Injection)... hoặc phẫu thuật loại bỏ tuyến giáp (Thyrodectomy) bán phần hoặc toàn phần.

Đại cương

Bướu cổ có thể đánh giá thông qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng kết hợp với thăm dò chức năng tuyến giáp qua xét nghiệm hóa sinh hay siêu âm tuyến giáp.

Hỏi bệnh sử và khai thác tiền sử

Tiền sử

Thông tin cần thiết trong việc tiếp cận với bệnh nhân bướu cổ bao gồm tiền căn bản thân và tiền sử gia đình. Dưới đây gợi ý thông tin có thể khai thác được từ tiền sử.

Thăm khám lâm sàng

Một số kỹ năng khám lâm sàng có thể phát hiện được bướu cổ với một kích thước nhất định.

Kỹ năng nhìn và sờ

Nhìn và sờ là hai kỹ năng cơ bản trong khám tuyến giáp. Bác sĩ có thể quan sát bướu cổ bệnh nhân với tư thế hơi ngửa cổ và có thể có động tác nuốt để đánh giá giới hạn, kích thước tuyến giáp cũng như tính chất di động theo nhịp nuốt của tuyến giáp. Đồng thời sờ tuyến giáp có thể xác định được một số tính chất khác liên quan đến bướu giáp như tính chất đau, nhiệt độ da vùng tuyến giáp, tính chất tuyến giáp, giới hạn, hạch bất thường và rung miu.

Phân độ bướu giáp (WHO 2014)

Trước đây, bướu giáp được phân thành 5 độ chính (độ 0, độ IA, độ IB, độ II và độ III) theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 1960 (hiệu chỉnh năm 1996). Tuy nhiên, việc phân độ đó chưa thực sự có tính ứng dụng cao trong công tác thăm khám lâm sàng nên ngày nay, bướu giáp được phân loại theo đề xuất mới được WHO ban hành vào năm 2014.

Kỹ năng nghe

Nghiệm pháp Pemberton

Nghiệm pháp Pemberton là một phương pháp khám lâm sàng được đề xuất bởi Hugh Pemberton. Nghiệm pháp Pemberton dương tính gợi ý tình trạng chèn ép tĩnh mạch chủ trên (hội chứng tĩnh mạch chủ trên, Superior Vena Cava Syndrome) và một trong những nguyên nhân phổ biến của sự chèn ép này là do bướu giáp chìm sau xương ức choán chỗ

Đánh giá cận lâm sàng

nhỏ|266x266px|Kết quả siêu âm tuyến giáp cho thấy có nhân giáp

Siêu âm tuyến giáp

Siêu âm tuyến giáp (Thyroid ultrasonography) là phương tiện chẩn đoán hình ảnh chính yếu được sử dụng trong khảo sát hình thái tuyến giáp. Với độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 94.12% và độ chính xác 96%, siêu âm được sử dụng là phương tiện đánh giá đầu tay trong công cụ tầm soát các loại nhân giáp với các hình thái khác nhau. Siêu âm tuyến giáp giúp đánh giá nguy cơ ác tính (malignancy) của nhân giáp.

Hiện nay, có nhiều hệ thống dữ liệu và báo cáo hình ảnh tuyến giáp (Thyroid Imaging - Reporting and Data System, TI-RADS) được sử dụng rộng rãi trong các cơ sở khám chữa bệnh như hệ thống TI-RADS của Hàn Quốc, Hoa Kỳ, châu Âu... Trong bài viết này, chúng tôi trình bày phân loại TI-RADS theo đề xuất (năm 2017) của Hiệp hội Điện Quang Hoa Kỳ (American College of Radiology).

Sau đó, ta cộng điểm của từng tiêu chí trên và được điểm TI-RADS tổng số. Thí dụ, siêu âm tuyến giáp cho thấy nhân giáp ở thùy trái tuyến giáp có dạng bọt biển (0), hồi âm kém (2), kích thước d# 3-3mm (0), bờ khó xác định (0) và vôi hóa lớn (2); như vậy nhân giáp này có tổng điểm TI-RADS theo ACR (2017) là 4.

Nguyên nhân

Trên thế giới, nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh bướu cổ là thiếu iod hoặc dư thừa iod dẫn đến suy giáp, hay gặp ở các quốc gia không sử dụng muối iod. Thiếu selen cũng được coi là một yếu tố góp phần gây bướu cổ. Ở các quốc gia sử dụng muối iod, viêm tuyến giáp Hashimoto là nguyên nhân phổ biến nhất. Bướu cổ cũng có thể là kết quả của ngộ độc xyanua; đặc biệt phổ biến ở các nước nhiệt đới nơi củ sắn giàu xyanua là thực phẩm chính.