✨Đoàn Tử Quang

Đoàn Tử Quang

Đoàn Tử Quang (1818-1928), được xem là người cao tuổi thứ hai đỗ cử nhân trong lịch sử khoa bảng Việt Nam sau Vũ Đình Thự (84 tuổi), vào khoa thi năm Thành Thái thứ 12 (1900) khi đã 82 tuổi.

Tiểu sử

Đoàn Tử Quang sinh năm 1818 đời vua Gia Long, quê ở làng Phụng Đạt, xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh), là con thứ hai của ông Đoàn Nhuyện (biệt hiệu Liệt Giang cư sĩ) và bà Lê Thị Nậm. Mồ côi cha từ nhỏ, Đoàn Tử Quang lớn lên dưới sự dạy bảo của người mẹ đã thủ tiết thờ chồng nuôi con từ năm 20 tuổi và dạy dỗ con trẻ nên được tiếng tốt và được vua ban cho tấm biển “Tiết hạnh khả phong”.

Từ nhỏ Đoàn Tử Quang đã được mẹ khuyến khích học hành, theo đuổi khoa cử để lập công danh nên ông chăm chỉ học tập. Dù vậy, như câu thành ngữ “học tài thi phận”, ông thi nhiều lần mà không đỗ. Mãi tới năm 49 tuổi, ông mới lần đầu tiên thi đỗ Tú tài và cũng chỉ đỗ Tú tài lần thứ hai khi ông đã 66 tuổi. Trước khi đậu cử nhân, ông đã đi thi 21 lần

Thi cử

Vào Khoa thi Canh Tý năm 1900, Đoàn Tử Quang không định đi thi, vì tuổi quá cao, nhưng do khoa ấy làng ông không có thí sinh nào dự thi nên các vị chức sắc của làng đã động viên Đoàn Tử Quang đi thi. Năm ấy, vợ cả ông vừa mất, nên ba con trai của ông không được dự thi, vì phải theo luật "đoạn tang" (đang có tang cha, mẹ không được đi thi)

Việc một ông lão 82 tuổi dự thi đã được Chánh Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và Phó Chủ khảo Mai Khắc Đôn phải ghi chép lại thành chuyện dưới đầu đề "Mẩu chuyện hay được ghi lại ở Trường Thi" ở trong sách "Khoa Canh Tý" như sau:

Thủ khoa kỳ thi đó là Phan Bội Châu, đã cảm phục và sáng tác bài ca tặng ông và đôi câu đối:

:Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm;

:Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân.

Làm quan

Dưới triều Nguyễn, theo quy định, các quan tới tuổi 65 sẽ hồi hưu. Song để đền đáp và khuyến khích ý chí và nghị lực phi thường của ông nên triều đình vẫn đặc cách bổ dụng làm quan. Từ năm 1901 tới năm 1903, ông được cử làm chức huấn đạo huyện Hương Sơn, rồi huấn đạo huyện Can Lộc. Năm 85 tuổi, ông xin về hưu để phụng dưỡng mẹ già khi ấy đã trên 100 tuổi. Vào năm 1924, khi ông thượng thọ 106 tuổi, triều đình đã phong hàm Hàn lâm viện thị độc tặng ông.

Ông mất vào năm 1928, thọ 110 tuổi. Cả cuộc đời ông từ khi sinh ra vào đời Gia Long - vua đầu tiên nhà Nguyễn đến khi mất vào đời Bảo Đại - vua cuối cùng của triều đại này đã trải qua tất cả các đời vua nhà Nguyễn. Đoàn Tử Quang là trí thức khoa bảng có tuổi thọ cao nhất trong lịch sử Việt Nam (bên cạnh tiến sĩ Nguyễn Xuân Chính thọ 107 tuổi và tiến sĩ Nguyễn Như Đổ thọ 102 tuổi).