✨Truyện Gối đầu

Truyện Gối đầu

nhỏ|Bức họa nữ văn sĩ [[Sei Shōnagon vào cuối thế kỉ 17.]] là một tập truyện nói về những quan sát và suy ngẫm của nữ văn sĩ Sei Shōnagon trong khoảng thời gian bà làm nữ quan cho Hoàng hậu Teishi từ những năm 990 đến đầu những năm 1000 vào thời kỳ Heian của Nhật Bản. Tác phẩm được hoàn thành vào năm 1002.

Tác phẩm Truyện Gối Đầu là tổng hợp tất cả những văn kiện, truyền thuyết, thơ ca, và cả những đoạn mô tả ít có mối liên hệ với nhau, chỉ trừ điểm chung duy nhất là chúng đều là những ý tưởng nảy ra bất chợt mà Shōnagon đã nghĩ ra dựa trên những khoảnh khắc trong cuộc sống thường nhật của bà, trong đó chứa đựng rất nhiều những thể loại, hình thức diễn đạt khác nhau như những sự kiện cung đình quan trọng, những bài thơ, cách nhìn nhận của tác giả đối với những nhân vật quan trọng thời đó cũng như những suy nghĩ của chính bà. Dù chỉ là tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, song kỹ năng viết lách và sáng tác thơ tuyệt vời của nữ quan Shōnagon đã giúp cho Truyện gối đầu được nâng tầm và trở thành một tác phẩm văn học thực sự, và được coi là một tư liệu lịch sử có giá trị. Mặc dù Shōnagon chỉ dùng góc nhìn và quan điểm cá nhân để viết nên Truyện gối đầu, nhưng một phần của tác phẩm ấy đã phản ánh gần như toàn bộ cuộc sống chốn cung đình, nơi mà nữ tác giả đã sống trong gần hết cuộc đời : "Bà đã vô tình đặt nó [tác phẩm] lên chiếc đệm được chuẩn bị cho khách, và vị khách đó đã mang nó đi bất chấp lời cầu xin của bà." Shōnagon viết Truyện gối đầu như một thú vui riêng tư trong cuộc sống hằng ngày; có lẽ đó là cách để bà có thể giãi bày tâm sự và bộc lộ những xúc cảm thầm kín - thứ mà những người có địa vị thấp kém trong cung không thể bộc lộ một cách trực tiếp. Mặc dù Shōnagon chưa bao giờ chia sẻ tác phẩm cho ai khác ngoài chính mình, song qua nhiều thế kỉ, nó đã trở thành một tác phẩm văn học nổi tiếng. Sáu đoạn văn thuộc tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1889 bởi T. A. Purcell và W. G. Aston. Một bản dịch tiếng Anh đáng chú ý khác là bản dịch của Arthur Waley; một phần của tác phẩm đã được dịch vào năm 1928, Ivan Morris đã dịch trọn vẹn tác phẩm này vào năm 1967, và bản dịch hoàn thiện của Meredith McKinney vào năm 2006.

Sơ lược về tác phẩm

Được bắt đầu bởi "tính toàn diện" với việc "thu thập lại những điều giản đơn" và cách diễn đạt với những cụm từ như "giống như những chú sâu", "tựa như hoa của cây", "những điều ta không thích" và "những điều tươi đẹp" – chúng là những cụm từ mô tả theo lối viết cổ xưa, được ví như "danh sách kiểu Borgesian". Ta có thể thấy rằng, "những lời tản mạn" của tác giả Sei Shōnagon là thành quả của việc quan sát quang cảnh thiên nhiên và sắc thái bốn mùa trong năm, và dùng những câu từ để miêu tả chúng dưới dạng "hồi ức" (còn gọi là "nhật ký"), qua đó thể hiện sự hồi tưởng của tác giả đối với cuộc sống cung đình xoay quanh chủ nhân của bà là Hoàng hậu Teishi, nằm trong những điều khác mà tác phẩm đã khắc họa.

Theo lời Meredith McKinney trong tờ báo Kyoto Journal, (người đã đóng góp bản dịch tiếng Anh cho tác phẩm),Truyện gối đầu là một tác phẩm đặc biệt, nó là tổ hợp những tác phẩm có dung lượng ngắn hơn và nội dung của chúng không hề liên quan đến nhau . Thành quả văn chương của nữ sĩ Shōnagon có thể được chia làm 3 phần; phần đầu là những mẩu chuyện tường thuật, nội dung của nó tập trung vào những sự kiện mà tác giả từng được chứng kiến và nếm trải trong suốt thời gian phục vụ trong cung đình, phần hai bao gồm những suy nghĩ và quan điểm của bà về những sự việc khác nhau trong cuộc sống, và phần cuối là danh sách các văn kiện có tiêu đề, ví dụ như văn kiện với tiêu đề "Những thứ khiến trái tim trở nên yếu mềm." Tác phẩm Truyện gối đầu chứa tổng cộng tất cả 164 văn kiện mang tiêu đề, nơi chứa đựng những chi tiết có giá trị về mặt mỹ học và ít cởi mở hơn so với những câu chuyện truyền thuyết của Shōnagon. Ý tưởng phân chia tác phẩm làm ba phần đã được đề xuất bởi Kikan Ikeda. Tuy nhiên, cũng có những phần khá mơ hồ và rất khó để phân loại (ví dụ như đoạn đầu trong phần tản văn của tác phẩm, "Tựa như mùa xuân, (đó là) cảnh bình minh [tuyệt đẹp]", đã có những tranh cãi về việc phân loại đoạn văn trên).

Tác phẩm chủ yếu được biết bằng chữ hiragana của Nhật; đó là những kí tự bản địa bắt nguồn từ Trung Quốc, và có rất mẩu chuyện trong tác phẩm được viết theo phong cách hóm hỉnh và dí dỏm. Vào thời đó, những người phụ nữ như Shōnagon thường sử dụng chữ Hiragana làm ngôn ngữ viết. Theo Matthew Penney trong bài bình về "Truyện Gối đầu", những địa danh, chức tước là những trường hợp duy nhất cho phép các kí tự Hán ngữ xuất hiện trong tác phẩm, những phần còn lại đều được viết bằng Hiragana. Những lời thú nhận cảm xúc của tác giả đã được khéo léo lồng ghép vào trong những câu văn diễn tả sự suy sụp của Nhiếp chính quan Fujiwara no Michitaka cũng như việc cha ruột bà qua đời, và cả tình cảnh bất hạnh của Thiên hoàng và Hoàng hậu Teishi.

Tác phẩm là cả một thể hòa hợp đồng nhất giữa giác quan nhạy cảm và góc nhìn tinh tế của tác giả; vì nếu ta so sánh với cảm xúc của (Mầm mống của sự vật) được tìm thấy trong Truyện kể Genji, ta cũng sẽ thấy vẻ đẹp của thế giới này đã được diễn tả qua cách sử dụng từ ('đáng yêu') một cách đầy thông minh.

Nhìn chung, Truyện gối đầu được viết dưới dạng những câu văn ngắn gọn, với những đoạn văn không quá dài với nội dung dễ đọc và dễ hiểu đối với những người nói tiếng Nhật trong thời hiện đại. Những câu chuyện được sưu tầm ngẫu hứng đã từng được tạm chia thành 3 loại, về sau chúng đã được tổng hợp lại và phân loại theo nhiều cách khác nhau và được biên soạn lại bởi những người không phải là Sei Shōnagon. Dựa trên niềm tin của một số học giả, ta có thể cho rằng hầu hết các tác phẩm văn học của Shōnagon đều được viết trong khoảng thời gian bà ở trong cung ; tuy vậy, bà vẫn có một số tác phẩm khác được viết trong những năm tháng cuối đời và nội dung của chúng chỉ đề cập đến những kí ức về khoảng thời gian trước đây khi còn làm Nữ quan trong Triều đình.

Điểm khác biệt giữa tác phẩm Truyện gối đầu của Shōnagon với những tác phẩm khác cùng thể loại vào thời đó và thậm chí cả vào thời nay, đó là bản thân tác giả của nó không hề bỏ ra thời gian để cố tìm kiếm linh hồn cho tác phẩm, cũng như không tìm kiếm thái độ hay quan điểm của độc giả về tác phẩm, đơn giản là vì chính tác giả cũng không kỳ vọng đây sẽ là tác phẩm viết cho mọi người, chỉ là tác phẩm cho riêng mình mà thôi. Truyện gối đầu của Shōnagon được viết dựa trên cơ sở của những điều đáng yêu và đáng ghét trên trần thế dựa trên cảm xúc chủ quan của tác giả; tác phẩm thể hiện những thứ được quan tâm về mặt cá nhân và những điều tốt đẹp hiện hữu xung quanh thế giới riêng của người viết ra nó. Trong bài báo mang tên Kyoto Journal, McKinney giải thích rằng Shōnagon "có thể thu hút bạn [độc giả] qua nhiều thế kỉ, cho rằng bạn đã quen thuộc với bà ấy cũng như thế giới riêng của bà, sau đó khiến bạn phải gật đầu và mỉm cười." Thông thường, các phần được chọn lựa từ tuyển tập này đều hướng người đọc đến những suy nghĩ và giai thoại của Shonagon. Như vậy, ta có thể thấy rằng, Truyện gối đầu là cả một tuyển tập bao gồm những câu chuyện truyền thuyết, những điều hữu ích được liệt kê, tất cả đều hòa chung thành một tác phẩm văn học kiệt xuất và là nguồn thông tin tuyệt vời để tìm hiểu về đời sống cung đình vào hơn 1000 năm trước, và đã trở thành một dấu mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của nền văn học Nhật Bản . Truyện gối đầu được viết hoàn toàn bằng tiếng Nhật. Trong suốt khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỉ 11, trong khi hầu hết đàn ông Nhật Bản đều lấy Hán tự làm ngôn ngữ viết thì những người phụ nữ đã viết bằng ngôn ngữ bản địa của họ với việc sử dụng các ký tự hiragana, một loại chữ tượng hình bản địa có nguồn gốc từ Trung Quốc. Do đó, ta có thể thấy rằng, Truyện gối đầu là một phần của truyền thống văn chương rộng lớn dành cho nữ giới. Phong cách văn học quyến rũ và tối giản của Shonagon đã được dùng làm hình mẫu chuẩn mực cho văn xuôi Nhật Bản cho đến tận ngày nay. Theo Penney và Matthew thì Shōnagon đã từng bị các độc giả đánh giá là một người kiêu căng và thích đối đầu; mặc dù vậy, ta cũng không thể phủ nhận lối diễn đạt cảm xúc theo cách tự do, phóng khoáng pha chút dí dỏm đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm.

Truyện Gối đầu có sức ảnh hưởng rất lớn tới một thể loại văn xuôi của Nhật Bản được gọi là .

Bối cảnh ra đời

Truyện Gối đầu ra đời vào thời kỳ Heian - nơi được xem là thời kỳ huy hoàng của giới quý tộc Nhật Bản. Thơ ca và nghệ thuật là một trong những phần quan trọng trong triều đình, tác giả Sei Shōnagon cũng là một phần trong đó. Vào thời đó, tất cả mọi người trong triều đình và Hoàng cung đều phải có kiến thức văn chương xuất sắc. Văn học thời kỳ này được xem như là một phương tiện giao tiếp quan trọng đến mức kỹ năng viết của một người được cho là có thể tạo nên hoặc phá vỡ danh tiếng của họ. Chẳng hạn như trong tác phẩm Truyện Gối đầu, Shōnagon đã đề cập đến việc một cận thần tới xin lời khuyên của bà để viết một bài thơ và rồi cuối cùng ông ta đã bị từ chối vì kỹ năng viết văn kém. Phụ nữ thời kỳ Heian cũng đóng vai trò quan trọng trong xã hội, đặc biệt là những người phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu. Các tác giả nữ ở Nhật Bản trong thời kỳ này được biết đến rộng rãi hơn vì hầu hết các tác phẩm của họ đều được viết bằng Nhật ngữ, được gọi là "ngôn ngữ của nhân dân", trong khi các tác giả nam sử dụng Hán ngữ để sáng tác vì thứ ngôn ngữ này vẫn được coi là có vị thế cao hơn. Vì các tác phẩm của những tác giả nữ thời đó phổ biến hơn với tầng lớp bình dân, nên chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng có sức ảnh hưởng lớn đến xã hội lúc bấy giờ.

Mặc dù phụ nữ trong thời kỳ Heian nắm giữ ít trọng trách hơn về mặt xã hội so với nam giới, song ngày nay, đã có nhiều nhà văn nghiên cứu về khả năng sáng tạo và cách chơi chữ hiragana của họ, vì nam giới thời Heian thường có xu hướng chỉ dùng Hán tự để thể hiện khả năng sử dụng hệ thống chữ viết vay mượn từ nước láng giềng Trung Hoa, trong khi Hiragana là loại chữ viết mới mẻ hơn và được những người phụ nữ độc quyền sử dụng. Hiragana (Bình giá danh) là hệ thống ngôn ngữ viết bao gồm các ký tự và các âm tiết cho phép thể hiện suy nghĩ bên trong theo cách tự do phóng khoáng hơn so với chữ Hán biểu trưng. Vì phụ nữ trong thời kỳ Heian thường không có những hoạt động xã hội, nên những người thuộc tầng lớp thượng lưu và có học thức cao thường có rất nhiều thời gian viết lách và sáng tác văn thơ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ phụ nữ khỏi những nơi quan trọng như triều chính cũng góp phần bảo vệ họ khỏi những bất ổn chính trị. Chữ mềm Hiragana cho phép phụ nữ có thể truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc của họ về cuộc sống bằng ngôn ngữ của riêng mình. Họ không cần thiết phải đi học chữ nhiều để có thể diễn tả mọi cảm giác trên giấy; vì các âm tiết của hiragana không giống như chữ kanji, nó có thể ghi nhận các biến tố nghe được trong lời nói. Tuy nhiên, những phụ nữ có học thức như Shōnagon thỉnh thoảng cũng sử dụng chữ Hán. Do Hán tự (hay Kanji) được xem là chữ viết của nam giới nên việc một người phụ nữ sử dụng và hiểu nó đúng cách chứng tỏ người đó đã dày công nghiên cứu Hán tự trong nhiều năm. Đó cũng là cách để Shōnagon thể hiện trí thông minh của mình thông qua việc sáng tác.

Lịch sử biên soạn và dịch thuật

Truyện Gối đầu đã được phổ biến rộng rãi trong cung đình và nó đã tồn tại trong suốt hàng trăm năm qua dưới dạng các bản viết tay. Được in lần đầu vào thế kỷ 17, tác phẩm đã tồn tại với nhiều phiên bản khác nhau: thứ tự các mục có thể đã được thay đổi bởi người biên soạn, cùng với đó là những lời bình về tác phẩm và các đoạn văn đã được thêm vào, chỉnh sửa hoặc xóa đi. Bốn biến thể chính của tác phẩm đã được các học giả hiện đại biết đến. Hai bản văn kiện được coi là đầy đủ và chính xác nhất là phiên bản của Sankanbon và Nōinbon. Các biên tập viên sau này đã giới thiệu số phần và các bộ phận của một trong hai phiên bản trên; phiên bản Sankanbon được chia thành 297 phần, với 29 phần "bổ sung" - có thể đại diện cho những phần bổ sung sau này của tác giả hoặc người chép lại tác phẩm này.

Các bản dịch tham khảo (bằng tiếng Anh)

  • T. A. Purcell and W. G. Aston, in Transactions of the Asiatic Society of Japan XVI (1889), pp. 215-24.
  • The Pillow-Book of Sei Shōnagon, trans. Arthur Waley (George Allen & Unwin, 1928).
  • The Pillow Book of Sei Shōnagon, trans. Ivan Morris (in two volumes, Oxford University Press, 1967
  • The Pillow Book, trans. Meredith McKinney (Penguin, 2006).

Machiko Midorikawa miêu tả bản dịch của McKinney là "sát nghĩa hơn nhiều so với bản dịch của Morris".

Những điều ngoài lề xoay quanh Truyện Gối đầu

nhỏ|Sei Shōnagon, bức họa lấy từ (thời kỳ Edo) Nói một cách tổng quát hơn, Truyện gối đầu là tập hợp tất cả các ghi chép đã được đối chiếu để thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của một người hay để thể hiện một điều gì đó. Ở Nhật Bản, thể loại văn chương "nhàn rỗi" như vậy thường được gọi là . Các tác phẩm lớn khác trong cùng thời kỳ bao gồm của Kamo no Chōmei và của Yoshida Kenkō. đã trở nên phổ biến rộng rãi vào thời Edo khi nó đã thu hút một lượng lớn khán giả trong các tầng lớp thương nhân mới phát triển. Hơn thế nữa, thể loại văn học này đã đạt được một chỗ đứng nhất định trong giới học thuật, khi các học giả cổ điển Nhật Bản bắt đầu sáng tác văn học theo phong cách . Các tác giả có uy tín trong thể loại này bao gồm Motoori Norinaga, Yokoi Yayu và Matsudaira Sadanobu .

Tác phẩm Truyện Gối đầu đã được Peter Greenaway chuyển thể thành phim (xem thêm: Truyện Gối đầu (phim)) vào năm 1996. Với sự tham gia của Vivian Wu và Ewan McGregor, phim kể một câu chuyện hiện đại có liên quan đến tác phẩm của Sei Shōnagon.

Ngoài ra, Truyện Gối đầu cũng là tên của một loạt phim kinh dị trên đài phát thanh được viết bởi Robert Forrest và được phát trên BBC Radio 4 thuộc chương trình Woman's Hour Drama . Đây là những câu chuyện trinh thám với Sei Shōnagon là nhân vật chính và cũng với những danh sách xuất hiện trong tác phẩm của bà.

👁️ 54 | ⌚2025-09-16 22:47:02.621
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

QC Shopee
Ngày **27 tháng 4** là ngày thứ 117 (118 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 248 ngày trong năm. ## Sự kiện *629 – Tướng quân Shahrbaraz soán vị quân chủ Sassanid Ba Tư
**Bình Nguyên Lộc** (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là **Tô Văn Tuấn**, còn gọi là **Năm Tuấn**, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ
**U-thong** () hoặc **Ramathibodi I** () (1314–1369) là vị vua đầu tiên của Vương quốc Ayutthaya (ngày nay là một phần của Thái Lan), trị vì từ năm 1350 đến năm 1369. Ông được gọi
Ngày **6 tháng 3** là ngày thứ 65 (66 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 300 ngày trong năm. ## Sự kiện *190 – Sau khi phế truất hoàng đế thiếu niên Lưu Biện
Ngày **1 tháng 3** là ngày thứ 60 (61 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 305 ngày trong năm. ## Sự kiện * 293 – Hoàng đế Diocletianus và Maximianus bổ nhiệm Constantius Chlorus
**Melbourne** (Phát âm tiếng Anh: ;, thường được viết tắt là **Mel** hay **Melb**) là một thành phố cảng nằm ở khu vực đông nam của Úc. Đây là thủ phủ và thành phố lớn
**Theodore Roosevelt, Jr.** (27 tháng 10 năm 1858 – 6 tháng 1 năm 1919), còn được gọi là **T.R.** hay **Teddy**, là một chính khách, chính trị gia, nhà bảo tồn học, người theo chủ
Ngày **19 tháng 2** là ngày thứ 50 trong lịch Gregory. Còn 315 ngày trong năm (316 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *197 – Hoàng đế La Mã Septimius Severus đánh bại Clodius
**Hạ Long** (trước năm 1994 là thị xã **Hồng Gai**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Thành phố được đặt theo tên của vịnh Hạ Long, vịnh biển nằm
Sơn tra thông thường (hình chụp gần của hoa) **Chi Sơn tra** hay **chi Táo gai** (danh pháp khoa học: **_Crataegus_**), một số tài liệu in sai là _sơn trà_ hoặc _đào gai_, là một
Ngày **9 tháng 2** là ngày thứ 40 trong lịch Gregory. Còn 325 ngày trong năm (326 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *474 – Zeno đăng quang đồng hoàng đế của Đế quốc
Ngày **4 tháng 2** là ngày thứ 35 trong lịch Gregory. Còn 330 ngày trong năm (331 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *266 – Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán sai sứ giả dâng
**Tiếng Slovak** ( ; endonym: hoặc ), là ngôn ngữ trong nhóm ngôn ngữ Tây-Slav thuộc hệ Ấn-Âu (cùng nhóm với tiếng Séc, tiếng Ba Lan và Tiếng Serbia-Croatia). Có hơn 6 triệu người trên
Ngày **31 tháng 1** là ngày thứ 31 trong lịch Gregory. Còn 334 ngày trong năm (335 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *314 – Bắt đầu giáo triều của Giáo hoàng Sylvestrô (Latinh:
Bếp điện từ Eurosun EU-TE887G là sự kết hợp độc đáo của bếp từ và bếp hồng ngoại. Bếp điện từ Eurosun EU-TE887G thỏa lòng yêu thích của các tín đồ yêu bếp khi tận
**Trương Quốc Dụng** (張國用, 1797–1864), khi trước tên là **Khánh**, tự: **Dĩ Hành**; là danh thần, là nhà văn, và là người có công chấn hưng lịch pháp Việt Nam thời Nguyễn. ## Thân thế
Ngày **10 tháng 1** là ngày thứ 10 trong lịch Gregory. Còn 355 ngày trong năm (356 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *49 TCN – Julius Caesar vượt qua Sông Rubicon, dấu hiệu
Ngày **5 tháng 1** là ngày thứ 5 trong lịch Gregory. Còn 360 ngày trong năm (361 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *269 – Giáo hoàng Fêlix I tựu nhiệm *1757 – Quốc
Ngày **3 tháng 1** là ngày thứ 3 trong lịch Gregory. Còn 362 ngày trong năm (363 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện ### Trong Nước *1389 – Tin theo lời của Hồ Quý
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Phra Nakhon Si Ayutthaya** (tiếng Thái: **พระนครศรีอยุธยา**, IPA: ) hoặc gọi tắt là **Ayutthaya**,là thủ phủ của tỉnh Phra Nakhon Si Ayutthaya của Thái Lan. Ayutthaya do vua U-Thong khai lập vào năm 1350 và
**Chùa Quảng Nghiêm** (Chữ Hán: 廣嚴寺) còn gọi là **chùa Tiên Lữ** hay **chùa Trăm Gian** là một ngôi chùa nằm trên một quả đồi cao khoảng 50 m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên
**Tịch Thiên** (zh. 寂天, sa. _śāntideva_, bo. _zhi ba lha_ ཞི་བ་ལྷ་), là một luận sư Phật giáo kiêm thi hào Ấn Độ sống vào khoảng thế kỉ thứ 7-8 Công nguyên. Ông là người theo
**Taksin Đại đế** (, , ) hay **Quốc vương Thonburi** (, , tiếng Trung giản thể: 郑 昭; tiếng Trung phồn thể: 鄭 昭; bính âm: Zhèng Zhāo; tiếng Triều Châu: Dên Chao; tiếng Việt:
**Luận sư** (zh. 論 師, sa. _ābhidharmika_, pi. _ābhidhammika_) là một Tỉ-khâu hoặc Tỉ-khâu-ni chuyên nghiên cứu A-tì-đạt-ma. Danh từ Luận sư được dịch theo cách dịch nghĩa của A-tì-đạt-ma là Luận, Luận tạng. *Như
Tập tin:Silat (vietnamese).jpg **Pencak-Silat** là một môn võ xuất phát từ Indonesia. Các kiểu đánh của môn võ này khác nhau tùy theo vùng và thường mô phỏng theo động tác của các con vật
**Liên hiệp Viễn thông Quốc tế** hoặc **Liên minh Viễn thông Quốc tế**, viết tắt là **ITU** (tiếng Anh: International Telecommunication Union) là một cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm
nhỏ|phải|Một bức tranh in mộc bản của bậc thầy [[ukiyo-e Utagawa Kuniyoshi mô tả _rōnin_ nổi tiếng Miyamoto Musashi đang nhận lời chúc phúc.]] là những samurai không còn chủ tướng trong thời kì phong
**Vương quốc Ayutthaya** (tiếng Thái: อยุธยา; phiên âm tiếng Việt: _A-dút-tha-da_; Hán-Việt: **A Du Đà Da** 阿瑜陀耶 hay **Đại Thành** 大城) là một vương quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767.
**Ratanakiri** hay **Rattanakiri** ( ) là một tỉnh (_khaet_) của Campuchia, vùng đất này còn được gọi là _Vọng Vân_ trong lịch sử Việt Nam thời kỳ nhà Nguyễn. Ratanakiri nằm ở vùng cao nguyên
**Côn trùng** hay còn gọi là **sâu bọ**, là một lớp sinh vật thuộc về ngành động vật không xương sống, chúng có bộ xương ngoài làm bằng kitin. Cơ thể chúng có ba phần
**_Sinh lý học con người_** là một khoa học nghiên cứu về các chức năng sinh học, lý học và hóa sinh học của người hay các cơ quan hoặc bộ phận của cơ thể
**Juventus Football Club** (từ , có nghĩa là _"tuổi trẻ"_; ), thường được gọi là **Juventus Turin**, **Juventus FC**, **Juventus**, **Juve** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Ý có trụ
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
**Lâm Tế Nghĩa Huyền** (zh. _línjì yìxuán_/ _lin-chi i-hsüan_ 臨濟義玄, ja. _rinzai gigen_), ?-866/867, là một vị Thiền sư Trung Quốc, là Tổ khai dòng thiền Lâm Tế. Sư là môn đệ xuất sắc nhất
**Long Thụ**, còn gọi là **Long Thọ** (zh. 龍樹; sa. _nāgārjuna_ नागार्जुन; bo. _klu sgrub_ ཀླུ་སྒྲུབ་), dịch âm là **Na-già-át-thụ-na** (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1–2, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của
**Người Kinh**, hay **Kinh tộc** (chữ Hán: 京族, bính âm: _jīngzú_, Hán-Việt: Kinh tộc) là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2000 ước tính
thumb|[[Kim cương chử và chuông (ghanta), những biểu tượng nghi lễ cổ điển của Kim cương thừa]] **Kim cương thừa** (zh. 金剛乘, sa. _vajrayāna_) là một trường phái Phật giáo xuất hiện trong khoảng thế
**Padmasambhava** (Hán Việt: Liên Hoa Sinh (蓮華生), sa. padmasambhava, padmakāra, bo. pad ma sam bhava པད་མ་སམ་བྷ་ཝ་, pad ma `byung gnas པད་མ་འབྱུང་གནས་), là một Đại sư Ấn Độ, sống cùng thời vua Tây Tạng Trisong Detsen
**Không Hải** (chữ Hán: 空海; Kana: くうかい; Romaji: _kūkai_; 774 - 835), còn được gọi là **Hoằng Pháp Đại Sư** (弘法大師, こうぼうだいしkōbō daishi), là một vị Cao tăng Nhật Bản, sáng lập Chân ngôn tông
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
nhỏ|Mặt cắt ngang của một viên đạn, với cấu tạo bao gồm: 1 - Đầu đạn; 2 -Vỏ đạn; 3 - [[Thuốc súng; 4 - Đế tròn; 5 - Kíp nổ (ngòi kích nổ). |250x250px]]
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Cứu Thế Quân** (_Salvation Army_), hoặc **Đạo quân Cứu thế**, là một hệ phái Tin Lành (_Evangelical_) thuộc cộng đồng Kháng Cách (_Protestant_), cũng là một tổ chức xã hội với các hoạt động từ
**William Booth** (10 tháng 4 năm 1829 – 20 tháng 8 năm 1912) là nhà sáng lập và Tướng quân đầu tiên (1878–1912) của Cứu Thế Quân (_Salvation Army_). William Booth được chọn vào danh
thumb|[[Thiên hà Chong Chóng, một thiên hà xoắn ốc điển hình trong chòm sao Đại Hùng, có đường kính khoảng 170.000 năm ánh sáng và cách Trái Đất xấp xỉ 27 triệu năm ánh sáng.]]
**Mật mã lượng tử** là một ngành khoa học nghiên cứu về bảo mật thông tin dựa trên các tính chất của vật lý lượng tử. Trong khi mật mã truyền thống khai thác chủ
nhỏ|So sánh hiệu ứng Hall lên hai mặt thanh Hall nhỏ|Hướng và chiều tác dụng trong hiệu ứng Hall **Hiệu ứng Hall** là một hiệu ứng vật lý được thực hiện khi áp dụng một
**Rau răm** (danh pháp hai phần: **_Persicaria odorata_**) là một loài thực vật ăn được thuộc họ Polygonaceae - họ Thân đốt hay họ Rau răm). ## Mô tả Rau răm là cây thân thảo,