✨Hạ Tề
Hạ Tề (chữ Hán: 賀齊; ?-227) là tướng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Hạ Tề tên tự là Công Miêu (公苗), người huyện Sơn Âm quận Cối Kê. Họ Hạ vốn là họ Khánh. Bác ruột của Hạ Tề là Khánh Thuần là nhà Nho có tiếng tăm, vào thời Hán An Đế làm Thị trung, Thái thú Giang Hạ, vì tránh tên húy cha của An Đế là Thanh Hà vương Lưu Khánh nên đổi sang họ Hạ. Cha Hạ Tề là Khánh Phụ, làm trưởng huyện Vĩnh Ninh.
Quan huyện ở Cối Kê
Thời trẻ, Hạ Tề làm quan trong quận, giữ chức Diệm Trưởng. Có viên quan trong huyện là Tư Tòng càn rỡ làm việc ác, Hạ Tề muốn bắt trị tội hắn, quan Chủ bạ can ngăn không nên, vì người này có nhiều vây cánh với người Sơn Việt.
Hạ Tề không nghe, cứ đi chém Tòng. Phe đảng của Tòng bèn tụ họp với nhau, có đến hơn nghìn người, đem quân đánh huyện. Hạ Tề đem quan dân mở cửa thành ra đánh, đại phá bọn chúng, làm kinh động cả vùng người Sơn Việt. Sau đó dân các huyện Thái Mạt, Phong Phố nổi lên chống lại, ông chuyển làm huyện trưởng Thái Mạt, giết kẻ ác, giúp người tốt, một tháng thì dẹp xong.
Giúp họ Tôn dẹp yên Giang Đông
Năm 196, Tôn Sách đến Giang Đông dựng nghiệp, xét cho Hạ Tề trúng Hiếu liêm. Tôn Sách đuổi đánh thái thú Cối Kê là Vương Lãng (cùng phe Lưu Do) đang trốn đến ở Đông Dã, trưởng huyện Hầu Quan là Thương Thăng giúp Lãng dấy binh. Tôn Sách sai trưởng huyện Vĩnh Ninh là Hàn Yến lĩnh chức Nam bộ Đô úy, đem quân đánh Thăng, lấy Hạ Tề làm trưởng huyện Vĩnh Ninh.
Hàn Yến đánh Thăng bị thua trận, Hạ Tề lại thay Yến làm việc quan Đô úy. Thương Thăng sợ uy danh của Hạ Tề, sai sứ đến thề ước xin hòa. Hạ Tề nhân đó khuyên dụ, Thương Thăng bèn ra trại xin hàng. Nhưng đồng đảng của Thăng là Trương Nhã, Chiêm Cương không muốn hàng theo Thăng hàng, cùng nhau giết Thăng. Trương Nhã xưng là Vô thượng Tướng quân, Chiêm Cường xưng là Thái thú Cối Kê. Do quân ít hơn bên địch, Hạ Tề dừng quân nghỉ ngơi. Nhân lúc Trương Nhã cùng con rể là Hà Hùng tranh chấp với nhau, Hạ Tề lập kế ly gián. Sau đó ông lại đến đánh, một trận phá được Trương Nhã. Quân của Chiêm Cường sợ hãi, dắt nhau ra hàng.
Tôn Sách mất (200), Hạ Tề phục vụ Tôn Quyền. Các huyện Kiến An, Hán Hưng, Nam Bình lại nổi dậy. Năm 203, Hạ Tề đem quân đến Kiến An, lập phủ Đô úy. Quận phát 5000 quân của các huyện, đều sai các quan huyện trưởng lĩnh quân, dưới quyền của Hạ Tề.
Năm tướng bên địch là Hồng Minh, Hồng Tiến, Uyển Ngự, Ngô Miễn, Hoa Đương đều lĩnh vạn hộ, đóng đồn liền tiếp ở huyện Hán Hưng, đem 5000-6000 hộ ở huyện Ngô đóng đồn riêng ở huyện Đại Trạch, đem 6000 hộ ở huyện Trâu Lâm đóng đồn riêng ở huyện Cái Trúc, lại cùng đến huyện Dư Can, đem quân đánh huyện Hán Hưng.
Hạ Tề cho rằng quân địch ít, vào sâu mà không nối tiếp, sợ bị đánh chặn, do đó sai huyện trưởng Tùng Dương là Đinh Phiên ở lại giữ huyện Dư Can. Đinh Phiên từ chối không chịu ở lại, Hạ Tề bèn chém Phiên, do đó trong quân run sợ, tất cả đều vâng lệnh. Ông chia quân ở lại giữ, đến đánh thắng địch liên tiếp, chém được Hồng Minh trong trận khiến Miễn, Đương, Tiến, Ngự đều ra hàng.
Sau đó Hạ Tề đi đánh huyện Cái Trúc, đem quân hướng đến huyện Đại Trạch, quân nổi dậy ra hàng. Cả thảy đánh dẹp chém 6000 người, bắt sống các tướng địch, lại lập ra huyện ấp, thu nạp được vạn quân. Tôn Quyền phong ông làm Bình đông Hiệu úy.
Năm 205, ông sang đánh huyện Thượng Nghiêu, chia huyện ấy lập ra huyện Kiến Bình.
Năm 208, Hạ Tề chuyển làm Uy vũ Trung lang tướng, đánh các huyện Y, Thiệp của quận Đan Dương. Bấy giờ, người bốn ấp Vũ Cường, Diệp Hương, Đông Dương, Phong Phố hàng trước, Hạ Tề dâng biểu xin lấy ấp Diệp Hương lập thành huyện Thủy Tân. Nhưng tướng địch ở huyện Thiệp là Kim Kì đem vạn hộ đóng đồn ở núi Vạn Lặc, Mao Cam đem vạn hộ đóng đồn ở núi Ô Liêu, tướng ở huyện Y là Trần Bộc, Tổ Sơn đem hai vạn hộ đóng đồn ở núi Lâm Lịch.
Núi Lâm Lịch bốn bề vách đá dựng đứng, cao đến mấy chục trượng, đường hẹp ngăn trở, không vừa đao khiên, quân địch lên chỗ cao ném đá xuống, do đó không đánh lên được. Quân Ngô đóng nhiều ngày, mọi người lo lắng. Hạ Tề tự đi xung quanh, xem xét địa hình, ngầm kén chọn quân khỏe mạnh, tạo ra lưỡi câu sắt, ém nấp ở chỗ hiểm mà quân địch không phòng bị, lấy lưỡi câu móc mà men theo đường, buổi đêm ngầm sai trèo lên, lại bày treo nhiều dây xuống dưới, do đó đem mấy trăm người trèo lên được, bốn bề bủa vây, lại cùng đánh trống thổi tù và. Hạ Tề lĩnh quân đợi, buổi đêm quân địch nghe tiếng trống bốn bề, bảo nhau là đại quân đã lên được hết, sợ hãi rối loạn, không biết làm gì, những kẻ giữ chỗ hiểm đều chạy về. Đại quân nhân đó trèo lên trên, đại phá Trần Bộc, những người còn lại đều hàng phục, cả thảy chém 7000 người.
Năm 227, Hạ Tề qua đời, không rõ ông bao nhiêu tuổi. Hạ Tề có nhiều công trạng với Đông Ngô, nhưng phần lớn là việc đánh dẹp trong lãnh thổ họ Tôn quản lý, ít tham gia những trận giao tranh với các phe phái quân phiệt bên ngoài. Ông không được La Quán Trung nhắc đến trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa.
