✨I-41 (tàu ngầm Nhật)
I-41 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt động tiếp liệu trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea, trước khi được điều động đối phó các cuộc đổ bộ lên Mariana và Philippines. I-41 bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ và phối hợp cùng máy bay từ tàu sân bay hộ tống đánh chìm trong biển Philippine vào ngày 18 tháng 11, 1944.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Tàu ngầm Type B Cải tiến 1 (lớp I-40) (còn gọi là Type B2) được cải tiến từ Type B1 dẫn trước, có trọng lượng hơi lớn hơn và trang bị động cơ diesel có thiết kế đơn giản hơn nhằm thúc đẩy việc chế tạo. Nó được đổi tên thành I-41 vào ngày 20 tháng 8, 1942, Tại đây số xe tăng này sẽ được thà xuống nước, đổ bộ lên đảo san hô, rồi băng qua đảo để xâm nhập vũng biển, nơi chúng phóng ngư lôi tấn công hạm đội đối phương tại nơi neo đậu. cuối cùng bị hủy bỏ hoàn toàn, và I-41 quay trở lại nhiệm vụ của một tàu ngầm tiếp liệu.
Chuyến tuần tra thứ nhất
Sau khi được bảo trì, I-41 khởi hành từ Kure vào ngày 15 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ nhất tại vùng biển giữa quần đảo Admiralty và Wewak, New Guinea. Nó không tìm thấy mục tiêu nào, nhưng vào ngày 13 tháng 6, Đô đốc Toyoda Soemu Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp thông báo cho Phó đốc Takagi rằng hạm đội đối phương không có mặt tại nơi neo đậu Majuro, và chỉ thị cho Đệ Lục hạm đội tái bố trí tàu ngầm của mình đến khu vực quần đảo Mariana. I-41 nhận được mệnh lệnh này vào ngày hôm sau, được phát đến khu vực phía Nam đảo Guam.
Chiến dịch quần đảo Mariana bắt đầu vào ngày 15 tháng 6, khi lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên Saipan. Do liên lạc với sở chỉ huy của Phó đốc Takagi đặt tại Saipan bị gián đoạn, việc chỉ huy Đệ Lục hạm đội được tạm thời chuyển cho Chuẩn đô đốc Owada Noboru, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 7 tại Truk. Trong bức điện cuối cùng gửi từ Saipan, Takagi thông báo ông cùng ban tham mưu Đệ Lục hạm đội chuẩn bị tham gia một cuộc xung phong "banzai"; ông được truy thăng lên hàm Đô đốc. Trong diễn biến tiếp theo, I-41 được phân công tuần tra về phía Đông Nam quần đảo Mariana cùng các tàu ngầm Ro-113, Ro-114, Ro-115 và Ro-116.
Vào ngày 22 tháng 6, I-41 được lệnh tách ra và đi đến Guam để tìm cách di tản những phi công bị mắc kẹt tại đây. Nó đến nơi hai ngày sau đó, trinh sát dọc hòn đảo bằng kính tiềm vọng để tìm kiếm địa điểm đổ bộ phù hợp. Nối trồi lên mặt nước lúc trời tối cách bờ biển và bắt liên lạc với lực lượng trên bộ. Hai sà lan đã chuyển được lên tàu 106 phi công, phần lớn thuộc Phi đoàn 705 Không lực Hải quân, trước khi một máy bay tuần tra B-24 Liberator xuất hiện buộc chiếc tàu ngầm phải lặn xuống né tránh. Không thể tiếp nhận thêm đợt vận chuyển nào khác, nó lên đường quay trở về Nhật Bản, đưa các hành khách lên bờ tại Ōita trên đảo Kyūshū vào ngày 30 tháng 6.
I-41 đi đến Kure vào ngày 1 tháng 7 và bắt đầu tập trận huấn luyện. Thiếu tá Hải quân Kondo Fumitake, nguyên hạm trưởng Ro-112, tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu vào ngày 5 tháng 8. Khi việc huấn luyện hoàn tất vào ngày 9 tháng 10, I-41 đi đến căn cứ Kaiten Otsujima trong biển nội địa Seto để tham gia huấn luyện các hoa tiêu lái ngư lôi tự sát, rồi quay trở lại Kure sau đó.
Chuyến tuần tra thứ hai
Vào ngày 13 tháng 10, Kế hoạch Sho-I-Go của Nhật Bản nhằm phòng thủ Philippines bắt đầu được kích hoạt. Sáu ngày sau đó, I-41 xuất phát từ Kure cho chuyến tuần tra thứ hai tại vùng biển về phía Đông quần đảo Philippines. Vào ngày hôm sau hạm đội Hoa Kỳ với 738 tàu các loại tiến hành đổ bộ lên đảo Leyte, nên I-41 được lệnh đi hết tốc độ đến khu vực tuần tra về phía Đông Leyte, nơi nó hoạt động phối hợp cùng tàu ngầm I-38. Thiếu tá Kondo hạm trưởng báo cáo đánh chìm được một tàu vận tải Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 10, nhưng thành tích này không được phía Hoa Kỳ xác nhận sau chiến tranh.
Đến ngày 30 tháng 10, I-41 báo cáo phát hiện một đội đặc nhiệm đối phương bao gồm ba tàu sân bay ở vị trí về phía Đông Bắc đảo Suluan, nhưng không thể tấn công. Đến ngày 3 tháng 11, trinh sát viên trên I-41 nhìn thấy một tàu sân bay cùng các tàu hộ tống gần eo biển San Bernardino; nhiều khả năng đó là chiếc , vốn hiện diện trong khu vực vào lúc đó. Lúc 23 giờ 30 phút, I-41 phóng một loạt ngư lôi tấn công mục tiêu, và Thiếu tá Kondo tự nhận đã đánh chìm được một tàu sân bay, nhưng thực ra chỉ có một quả đánh trúng mạn trái tàu tuần dương hạng nhẹ ; Reno sau đó được chiếc tàu kéo kéo về Ulithi để sửa chữa. Đến ngày 12 tháng 11, I-41 báo cáo tấn công một lực lượng đặc nhiệm đối phương khác, và sau đó nó mất liên lạc hoàn toàn với căn cứ.
Bị mất
Trong biển Philippine ở vị trí về phía Đông đảo Samar, Philippines, tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ thuộc Đội đặc nhiệm 30.7 nhận được cảnh báo nhờ giải mã tình báo tín hiệu, về sự hiện diện của một tàu ngầm đối phương trong khu vực. Một máy bay TBF Avenger tuần tra chống tàu ngầm xuất phát từ Anzio đã phát hiện một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt biển qua radar lúc khoảng 03 giờ 03 phút ngày 18 tháng 11, đang ẩn nấp trong một cơn mưa giông. Chiếc Avenger thả pháo sáng đánh dấu vị trí chiếc tàu ngầm, nhưng sau đó mất dấu mục tiêu. Một chiếc Avenger thứ hai tham gia vào việc truy tìm nhưng không có kết quả.
Đến 04 giờ 17 phút, các tàu hộ tống khu trục và đi đến hiện trường. Lúc 06 giờ 05 phút, Lawrence C. Taylor tấn công với hai loạt súng cối chống ngầm Hedgehog, nhưng trượt khỏi mục tiêu. Đến 06 giờ 16 phút, Melvin R. Nawman tung ra loạt Hedgehog của nó nhưng vẫn không trúng đích. Sau khi Lawrence C. Taylor bắn loạt Hedgehog thứ ba lúc 06 giờ 30 phút, nó nghe thấy ba tiếng nổ dưới nước, rồi tiếp nối bởi một vụ nổ dữ dội. Không lâu sau đó dầu diesel cùng nhiều mảnh vỡ trồi lên mặt nước, xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị phá hủy, nhiều khả năng là chiếc I-41, tại tọa độ .
Vào ngày 2 tháng 12, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-41 có thể đã bị mất với tổn thất toàn bộ 111 thành viên trên tàu tại khu vực biển Philippine. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.
