✨Lưu Thừa Hựu
Lưu Thừa Hựu (劉承祐) (28 tháng 3, 931 – 2 tháng 1, 951), còn được gọi theo thụy hiệu là Hậu Hán Ẩn Đế, là vị hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nhà Hậu Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 948 đến khi qua đời năm 951.
Lưu Thừa Hựu lên kế vị sau khi cha ông là Lưu Tri Viễn đột ngột qua đời. Thời đại của ông được đánh dấu bởi những cuộc thanh trừng do ông tiến hành đối với các trọng thần trong triều, cuối cùng dẫn đến thất bại của ông. Khi ông ra lệnh xử tử toàn gia của tướng Quách Uy năm 951, Quách liền dẫn quân tấn công thành đô, Lưu Thừa Hựu bị giết trên đường trốn chạy.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Lưu Thừa Hựu chào đời năm 931, tại Nghiệp Đô), tại tư gia của phụ thân là Lưu Tri Viễn. Khi đó cha ông đang là tướng thân tín dưới quyền Thạch Kính Đường (con rể của hoàng đế đương kim, Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên). Mẹ ông là vợ của Lưu Tri Viễn, Lý phu nhân. Ngoài ra còn có một người anh nuôi, Lưu Vân, vốn là con trai của Lưu Sùng (em trai Lưu Tri Viễn). Vì Tri Viễn bị muộn con và yêu thương Lưu Vân nên nhận làm Vân con mình.
Sau đó, khi Thạch Kính Đường lật đổ Hậu Đường và thành lập triều đại của riêng mình, Hậu Tấn, Lưu Tri Viễn được bổ dụng làm Tiết độ sứ Hà Đông năm 941. Cậu bé Lưu Thừa Hựu, 10 tuổi, được phong làm Quan sát sứ ở Hà Đông.
Làm vua
Những tháng đầu
Lưu Tri Viễn qua đời, để lại cho Lưu Thừa Hựu một mớ những vấn đề cần giải quyết. Quyền hành vẫn bị thao túng bởi các quyền thần trong triều và tướng mạnh ở các trấn. Ở biên giới phía tây, Hậu Hán lại phải đối mặt với sự đe dọa từ Hậu Thục. Trước khi qua đời, Lưu Tri Viễn đã cử Vương Cảnh Sùng dẫn một đội quân tới đóng ở Kim Xương và Phượng Tường, hai trấn này đang nằm trong tay Triệu Khuông Tán và Hầu Ích - cả hai tướng này xưng thần với cả Hậu Hán lẫn Hậu Thục. Lưu Tri Viễn lệnh cho Cảnh Sùng triệu hai tướng về Khai Phong, nếu họ chịu nghe lệnh thì thôi, còn nếu họ cố tình trì hoãn, trốn tránh thì xem xét tình hình mà dùng quân tiêu diệt. Khi Vương Cảnh Sùng đến Trường An, Khuông Tán đang chuẩn bị hành lý đến kinh đô. Cảnh Sùng thu lấy quân của Khuông Tán rồi hành quân tới Phượng Tường. Khi ông ta đi được giữa đường thì Lưu Tri Viễn đã chết, Lưu Thừa Hựu lên kế ngôi. Hầu Ích ở Phượng Tường thấy thế bèn từ chối không chịu vào triều. Các cố vấn của Cảnh Sùng khuyên ông ta làm theo mệnh lệnh, là giết chết Hầu Ích. Tuy nhiên ông ta lo ngại rằng Lưu Thừa Hựu không biết về mật lệnh mà tiên đế ban cho mình. Hầu Ích biết được việc ấy, ngay lập tức khởi hành đến Khai Phong mà không thông báo cho Vương Cảnh Sùng.
Hầu Ích tìm cách giết chết Vương Cảnh Sùng, nên nhiều lần dâng sớ tố cáo ông ta chuyên quyền. Cảnh Sùng nghe tin Hầu Ích bây giờ đã nắm quyền ở Khai Phong, ông ta trở nên bất bình và khinh mạt các quan trọng thần trong triều. Trong khi đó, Vương Ích được triều đình cử đến Thiểm để triệu hồi quân đội của Triệu Khuông Tán về triều. Hành động này khiến các tướng sĩ lo ngại, như Triệu Tư Quán và Thường Ngạn Khanh. Vương Cảnh Sùng bèn nhân đó nói khích bọn họ, khiến các tướng sĩ quyết tâm khởi loạn. Khi Vương Ích đem lực lượng đến Trường An (thủ phủ Kim Xương, sau đổi tên thành Vĩnh Hưng), thì Triệu Tư Quán cũng đem quân chiếm thành. Ông ta triệu tập 4000 quân từ trong thành, chuẩn bị ứng chiến. Trong khi đó, Vương Cảnh Sùng cũng thủ dụ dân chúng Phượng Tường kí tên vào thư đề cử ông ta ở lại làm Tiết độ sứ. Cả triều đình đều lo sợ Cảnh Sùng sẽ nổi loạn. Các triều thần bàn nhau rồi quyết định dời Vương Thủ Ân, Tiết độ sứ Tĩnh Nan đến Vĩnh Hưng và Triệu Huy, Tiết độ sứ Bảo Nghĩa đến Phượng Tường, và phong Vương Cảnh Sùng làm Tiết độ sứ Tĩnh Nan. Tuy nhiên, điều này không làm Cảnh Sùng vừa lòng. - người trước kia có quan hệ thân thiết với Đỗ Trọng Uy - nghe tin Trọng Uy bị chết thì trở nên lo sợ và có ý nổi dậy. Khi Triệu Tư Quán dâng thư khuyến tiến và một cái vương miện cho Thủ Trinh, thì Thủ Trinh liền tự xưng là Tần vương, công khai chống lại chính quyền Hậu Hán, lấy lý do tôn phò Hậu Tấn để chiêu mộ nhân tâm. Lý Thủ Trinh trao cho Tư Quán, Cảnh Sùng chức Tiết độ sứ, trong khi Cảnh Sùng bắt liên lạc với Hậu Thục, để cầu viện trợ. cho rằng nên tập trung đánh Hộ Quốc, vì đây là đầu não của quân ba trấn, và nếu như chỉ đánh hai trấn kia thì quân Hộ Quốc sẽ thừa cơ kinh sư phòng bị lỏng lẻo mà tiến công. Quách Uy đồng ý với Hỗ Ngạn Kha, hạ lệnh hội quân các lộ tại thủ phủ trấn Hộ Quốc là Hà Trung. Khi quân Hậu Hán tiến đến và thiết lập vòng vây quanh Hà Trung vào mùa thu năm 948, Lý Thủ Trinh tự tin vào uy tín của mình trong quân đội, hi vọng chúng quân sẽ trở giáo quay sang ủng hộ mình, tuy nhiên kết quả hoàn toàn ngược lại, quân Hán hăng hái tiến công. Quách Uy chặn đường tiếp tế lương thực, chứ chưa tấn công. Trong khi đó, Triệu Huệ cũng đưa quân bao vây Phượng Tường, và đánh bại được viện quân của Hậu Thục., bao vây Trường An, Triệu Tư Quán đầu hàng. Thành ngoài Hà Trung bị phá, Lý Thủ Trinh lui về thành trong cố thủ, rồi tự sát cùng với toàn gia. Vương Cảnh Sùng được tin, cũng tự tử theo, chấm dứt cuộc nổi dậy., và Trương Ngạn Siêu, cựu Tiết độ sứ Bảo Đại, đem quân thẳng tiến Thiền châu. Tuy nhiên, Quách Uy đã tới nhanh hơn, và Lý Hồng Nghĩa đầu hàng họ Quách. Vương Tuấn hội quân cùng Quách Uy, tiến sang Hoạt châu, Tống Diên Ác, Tiết độ sứ Nghĩa Thành (có trị sở tại Hoạt) đầu hàng. Uy lại nói với chúng quân rằng thay vì tạo phản, họ có thể bắt ông và nộp cho hoàng đế; quân sĩ đều không theo. Vương Tuấn lại nói vào khi vào được Khai Phong, quân sĩ có thể tha hồ tiệc tùng và cướp bóc. Vào lúc đó, Lưu Thừa Hựu thực sự sợ hãi, và nói với Đậu Trinh Cố, "Trẫm đã làm những điều quá tầm phào." Theo yêu cầu từ Lý Nghiệp, ông cho mở kho, phân phát tiền bạc cho lính bảo hộ Khai Phong, cũng như thân quyến của quân sĩ phe Quách Uy, hi vọng họ sẽ thuyết phục người thân đầu hàng., gần Khai Phong. Người Khai Phong sợ hãi. Lý thái hậu nói, "Trước sao không nghe lời Lý Đào. Giờ diệt vong đến nơi rồi!" Tuy nhiên, Mộ Dung Ngạn Siêu vẫn cho rằng mình có thể dễ dàng bắt được Quách Uy — cho đến khi Nhiếp Văn Tiến nói về các tướng đi theo Quách Uy, Ngạn Siêu lại bắt đầu thấy e ngại. Lưu Thừa Hựu cử Viên Nghĩa, và cựu Tiết độ sứ Uy Thắng, Lưu Trọng Tiến đến hội quân với Hầu Ích, Ngô Kiền Dụ và Trương Ngạn Siêu, chuẩn bị ứng chiến với Quách Uy "Thiên tử đang bị nguy hiểm. Ông là người chí thân, nên đưa lính tới bảo vệ ngài, và khuyên bề trên hãy đi đến trại của ta." Tuy nhiên, khi Tống Diên Ác chuẩn bị đi đến trại của quân triều đình, một số quân sĩ nghĩ rằng ông là do triều đình phái tới, vì thế Diên Ác không dám đi nữa. Khi mặt trời lặn, quân của Thừa Hựu từng người đến trại Quách Uy xin hàng. Mộ Dung Ngạn Siêu bỏ trốn đến Duyện châu, thủ phủ Thái Ninh quân, với chỉ một vài người lính còn đi theo hộ tống. Quân sĩ đã dần bỏ đi, tối hôm đó, trong trại chỉ còn ba tể tướng (Tô Phùng Cát, Tô Vũ Khuê và Đậu Trinh Cố) và chưa tới 100 thân binh.
Gia quyến
- Cha ** Hậu Hán Cao Tổ Lưu Tri Viễn
- Mẹ ** Lý hoàng hậu (Hậu Hán)
- Phu nhân ** Trương thị, con gái Trương Ngạn Thành
- Thiếp ** Canh thị (? - 950?)
Tổ tiên
