Người Ngái (tiếng Ngái: ; phiên âm Bạch thoại: ; tên gọi khác là Ngái Hắc Cá, Hẹ, Lầu Mần, Sín, Đản, Lê) Theo nghiên cứu của học giả Hà Hợp Dương Thượng, học giả Ngô Vân Hà và đồng sự, người Ngái và người Hẹ (là người Khách Gia) đến từ các vùng Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc.
Người Ngái ở Việt Nam là cư dân bản địa sống rải rác ở vùng ven biển và trên các đảo phía bắc Bắc bộ từ xưa ( kể cả trên các vùng Phòng Thành vì các vùng này thuở xưa vốn là của Đại Việt) . Điều đặc biệt lưu ý rằng không phải tất cả người Khách Gia ở Việt Nam đều là người Ngái, từ sau năm 1840 những người Khách Gia di cư vào Việt Nam đều được xếp vào dân tộc Hoa.
Ngôn ngữ
thumb|Bản văn học của dân tộc Ngái
Tiếng mẹ đẻ của người Ngái là tiếng Ngái, một phương ngôn trong tiếng Khách Gia hay còn gọi là tiếng Hẹ. Tiếng nói của họ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán- Tạng). Tiếng Ngái có thể chia thành 2 phương ngữ, Ngũ Thông Ngái 五硐𠊎 (đến từ Naliang, Nashu, Đồng Tôn, Hồ Long, Thái Lục, Phòng Thành, Tansan v.v.) và Thay Trọng Ngái 大眾𠊎 (đến từ Huệ Châu, Đông Quan, Phật Sơn) Người Ngái ở Việt Nam hiện nay đa số dùng tiếng Việt, tiếng Quảng Đông. Khi giao tiếp trong gia đình và trong cộng đồng thì dùng tiếng Ngái. Tiếng Ngái ở Việt Nam có âm bổng không như tiếng Ngái Hạc Cá có âm trầm nặng như "thai trọng ngái" của người Đài Loan .
Người Hoa
Người Hoa Nùng (華農) trước 1954 sinh sống chủ yếu tại Khu tự trị Nùng Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Người Hoa Nùng chủ yếu nói tiếng Quảng Đông phương ngữ Khâm Liêm và tiếng Hẹ (Khách Gia)
Theo một nghiên cứu, người Hoa chiếm đến 78% dân số Hải Ninh thời kỳ 1946 đến 1954, bởi trong nghiên cứu này, 100,000 "người Nùng" ở Hải Ninh được xem là người Hoa. Họ được gọi là người Hoa Nùng vì có xuất thân từ tầng lớp nông dân người Hoa thuộc Hán tộc chứ không phải người Nùng Tráng (vì chữ Nùng ở đây là dùng âm đọc tiếng Quảng Đông phương ngữ Khâm Liêm của chữ 農 Nông), và được gọi là người Nùng sau năm 1885, chủ yếu là do người Pháp không muốn thừa nhận họ là người Hoa vì những lý do chính trị.
Sau năm 1954, hơn 50.000 người Hoa Nùng do Đại tá Voòng A Sáng (黃亞生) dẫn đầu chạy vào Nam và tái định cư ở miền Nam Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh Đồng Nai và Bình Thuận . Hiện nay đa số nhận là dân tộc Hoa .
Người Hoa Nùng là Hán tộc nói 欽廉 方言 (phương ngôn Khâm-Liêm ) thuộc 廣東話 (tiếng Quảng Đông )hay còn được gọi là 白話 (Bạch thoại) đa số có quê ở vùng Phòng Thành (nay là thành phố Phòng Thành Cảng ), Khâm Châu,... của tỉnh Quảng Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Tây ). Đây cũng là khu vực sinh sống của đa số người Ngái do đó văn hóa, phong tục cũng gần giống nhau. Vì thế người Ngái ngoài biết nói tiếng Ngái , họ còn biết nói tiếng Quảng Đông (廣東話 ) phương ngôn Khâm Liêm (欽廉 ) để trao đổi buôn bán, giao tiếp với người Hoa Nùng hay nói cách khác là người Hán nói tiếng Quảng Đông phương ngôn Khâm - Liêm cư trú ở khu vực đó.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Ngái cư trú rải rác ở nhiều tỉnh thành. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì tại Việt Nam có 4.841 người Ngái. Các tỉnh thành tập trung đông nhất là: Thái Nguyên, Bắc Giang, Đồng Nai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Đắk Lắk, Bình Thuận, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh...Người Ngái ở Miền Nam phần nhiều là con cháu của dân di cư 1954 từ các vùng Na Pa (nay là xã Quảng An),Đầm Hà,Hà Cối,xã Đài Xuyên,Đảo Cái Bầu (Vân Đồn) thuộc Quảng Yên, Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh).
Miếu Quan Âm Hộ Quốc ở phường Phú Trung,quận Tân Phú, là địa điểm sinh hoạt tâm linh chính của người Ngái và người Hoa Hán tộc nói phương ngữ Khâm Liêm ở TP.HCM.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ngái ở Việt Nam chỉ còn 1.035 người, có mặt ở 27 trên tổng số 63.Thực ra người biết sử dụng tiếng Ngái còn rất nhiều nhưng trên giấy tờ CMND họ bị ghi là dân tộc Hoa. Một số địa phương tập trung đông người dùng tiếng Ngái như khu Phú Bình (phường 5,Q 11.) Phú Bình ( phường Phú Trung,Q Tân Phú ,Phường 2,Phường 9-Q 11. Làng Gia Liêu-Phường Phú Bình, làng Tân Thủy-phường Bàu Sen-TpLong Khánh,Bàu Hầm,125,Định Quán-Đồng Nai...Do đó số liệu thống kê ở đây là thiếu chính xác.(Thường người Ngái sẽ biết nói tiếng Ngái và tiếng Quảng Đông nhưng người Hoa gốc Quảng Đông thì không biết tiếng Ngái) tỉnh, thành phố. Người Ngái cư trú tập trung tại các tỉnh:
Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Đại Từ,Phú Lương (495 người, chiếm 47,8% tổng số người Ngái tại Việt Nam),
Bình Thuận,Bắc Bình Sông Mao(157 người, chiếm 15,2% tổng số người Ngái tại Việt Nam),
Đồng Nai,Long Khánh,Định Quán,Tân Phú,Trảng Bom (53 người),
Bắc Kạn,Phủ Thông(48 người),
Tuyên Quang (43 người),
Đắk Lắk (37 người),
*Cao Bằng (30 người)
Đặc điểm kinh tế
nhỏ|phải|Bữa cơm của người Ngái
Người Ngái sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng trồng lúa. Ở vùng hải đảo, ven biển thì đánh cá là chính. Họ có truyền thống đào kênh, mương, đắp đập, tạo hồ nước, đắp đê biển, có những nghề thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói.
Việc gieo trồng mùa vụ trong năm của họ căn cứ vào các hiện tượng tự nhiên như: tiếng chim hót, lá cây rụng, hoa nở,... Họ xây các mương đập dài vài chục km để tưới tiêu.Người Ngái ở Đồng Nai,Long Khánh làm rẫy trồng hồ tiêu,cà phê,sầu riêng... Người Ngái ở thành phố Hồ Chí Minh làm các nghề tiểu thủ công nghiệp như giày dép, tập trung ở quận 11, Tân Bình, Tân Phú, các tiểu thương Chợ Lớn. Một số đã thành những doanh nghiệp lớn trong ngành giày dép, cao su,...Con cháu người Ngái cũng nhiều người học hành thành đạt...
Hôn nhân gia đình
Trong gia đình, người chồng là trụ cột chính, bình đẳng giữa vợ chồng và các mối quan hệ. Con cháu hòa thuận, hiếu thảo bề trên các bậc trưởng bối.
Xưa kia, trai gái Ngái được cha mẹ dựng vợ gả chồng phải trải qua hai lần cưới: lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Để cưới vợ cho con, nhà trai chủ động chọn tìm đối tượng dạm hỏi. Khi có thai, phụ nữ Ngái kiêng cữ rất cẩn thận: không ăn ốc, thịt bò, dê, không may vá hay mua quần áo. Sau khi sinh con 60 ngày đối với con đầu, 40 ngày đối với con thứ, người sản phụ mới được đến nhà mẹ đẻ của mình.
Họ nhà vợ, đại diện là ông cậu có vai trò quan trọng trong gia đình người Ngái. Ông cậu gọi là "Khíu Cúng", được coi như người cha của các chị em gái trong gia đình.
Tục lệ ma chay
Theo phong tục Ngái, người chết được tổ chức đám ma chu đáo. Sau khi chôn cất được cúng vào dịp 21 ngày, 35 ngày, , 49 ngày, 100 ngày, 3 năm thì làm lễ đoạn tang.Tang ma của người Ngái ở SG cũng như ở
Miền Nam thường tổ chức cúng kiến linh đình còn nhiều hủ tục...
Người Ngái có tục cúng mộ vào dịp Thanh Minh,Trùng cửu(mùng 9/9al hoặc 19/9 hoặc 29/9)...Sau 5- 10 năm thì cải táng mộ hốt cốt dời đi nơi thích hợp chôn lại.
Văn hóa
thumb|Nhà ở người Hoa Nùng tại Sông Thao, Đồng Nai
Người Ngái có lối hát giao duyên nam nữ, gọi là Sường cô, rất phong phú. Có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Tục ngữ có ý nghĩa răn dạy về kinh nghiệm làm ăn, về cách sống. Nhiều trò chơi được ưa thích như múa sư tử, múa gậy, chơi rồng rắn.
Nhà cửa
nhỏ|phải|Nhà cửa của người Ngái tại Bắc Kạn
Người Ngái thường lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng hoặc ven biển, trên đảo. Nhà phổ biến là nhà ba gian hai chái...Người Ngái hiện đại ngày nay sống hoà nhập nên nhà cửa cũng xây dựng nhà tầng hoặc nhà xây bình thường như người Kinh,người Hoa...
Trang phục
Trang phục Ngái giống người Hoa (Hán). Ngoài quần áo, họ còn đội mũ, nón các loại tự làm từ lá, mây tre, đồng thời đội khăn, che ô.
Người Ngái ở TpHCM cũng như ở các tỉnh thành Miền Nam không còn mặc những trang phục dân tộc mà ăn mặc hoà nhập như các dân tộc khác.
👁️
66 | ⌚2025-09-16 22:26:15.874

**Người Ngái** (tiếng Ngái: ; phiên âm Bạch thoại: ; tên gọi khác là **Ngái Hắc Cá**, **Hẹ, Lầu Mần**, **Sín**, **Đản**, **Lê**) Theo nghiên cứu của học giả Hà Hợp Dương Thượng, học giả
**Người Ngái** (tiếng Ngái: ; phiên âm Bạch thoại: ; tên gọi khác là **Ngái Hắc Cá**, **Hẹ, Lầu Mần**, **Sín**, **Đản**, **Lê**) Theo nghiên cứu của học giả Hà Hợp Dương Thượng, học giả
**Người Ngái** (tiếng Ngái: ; phiên âm Bạch thoại: ; tên gọi khác là **Ngái Hắc Cá**, **Hẹ, Lầu Mần**, **Sín**, **Đản**, **Lê**) Theo nghiên cứu của học giả Hà Hợp Dương Thượng, học giả
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
:_Về ngôn ngữ hay phương ngữ, xem Tiếng Khách Gia._ **Khách Gia**, hay **Hakka**, còn gọi là **người Hẹ** (chữ Hán: 客家; bính âm: _kèjiā_; nghĩa đen là "nhà khách") là một tộc người Hán
:_Về ngôn ngữ hay phương ngữ, xem Tiếng Khách Gia._ **Khách Gia**, hay **Hakka**, còn gọi là **người Hẹ** (chữ Hán: 客家; bính âm: _kèjiā_; nghĩa đen là "nhà khách") là một tộc người Hán
:_Về ngôn ngữ hay phương ngữ, xem Tiếng Khách Gia._ **Khách Gia**, hay **Hakka**, còn gọi là **người Hẹ** (chữ Hán: 客家; bính âm: _kèjiā_; nghĩa đen là "nhà khách") là một tộc người Hán
**Quảng Ngãi** là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc vùng Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Cẩm Thành, cách Thành phố Hồ Chí Minh
**Quảng Ngãi** là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc vùng Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Cẩm Thành, cách Thành phố Hồ Chí Minh
**Quảng Ngãi** là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc vùng Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Cẩm Thành, cách Thành phố Hồ Chí Minh
**Chi Ngải** (danh pháp khoa học: **_Artemisia_**) là một chi lớn, đa dạng của thực vật có hoa với khoảng 480 loài thuộc về họ Cúc (Asteraceae). Nó bao gồm các loại cây thân thảo
**Chi Ngải** (danh pháp khoa học: **_Artemisia_**) là một chi lớn, đa dạng của thực vật có hoa với khoảng 480 loài thuộc về họ Cúc (Asteraceae). Nó bao gồm các loại cây thân thảo
**Chi Ngải** (danh pháp khoa học: **_Artemisia_**) là một chi lớn, đa dạng của thực vật có hoa với khoảng 480 loài thuộc về họ Cúc (Asteraceae). Nó bao gồm các loại cây thân thảo
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi **Trường Lũy Quảng Ngãi**, **Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định** hay **Tĩnh Man trường lũy** (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là **Trường Lũy**, là một công trình kiến
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi **Trường Lũy Quảng Ngãi**, **Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định** hay **Tĩnh Man trường lũy** (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là **Trường Lũy**, là một công trình kiến
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi **Trường Lũy Quảng Ngãi**, **Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định** hay **Tĩnh Man trường lũy** (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là **Trường Lũy**, là một công trình kiến
thumb|Vương miện của [[Christian IV của Đan Mạch|Vua Christian IV]] Theo _Đạo luật Kế vị_ của Đan Mạch, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 3 năm 1953, quy định ngai vàng Vương thất Đan
thumb|Vương miện của [[Christian IV của Đan Mạch|Vua Christian IV]] Theo _Đạo luật Kế vị_ của Đan Mạch, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 3 năm 1953, quy định ngai vàng Vương thất Đan
thumb|Vương miện của [[Christian IV của Đan Mạch|Vua Christian IV]] Theo _Đạo luật Kế vị_ của Đan Mạch, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 3 năm 1953, quy định ngai vàng Vương thất Đan
**Ngải** hay **Nghệ** (chữ Hán: ) là một họ tại Trung Quốc. Trong_ Bách gia tính_, họ Ngải nằm ở vị trí thứ 334. Năm 2008, họ này là một trong 215 họ phổ biến
1.Đường Mây Trên Đất Hoa Cuộc đời tu tập và hành đạo kéo dài suốt một trăm hai mươi năm của Hòa thượng Hư Vân không chỉ là tấm bản đồ chỉ dẫn cho những
1.Đường Mây Trên Đất Hoa Cuộc đời tu tập và hành đạo kéo dài suốt một trăm hai mươi năm của Hòa thượng Hư Vân không chỉ là tấm bản đồ chỉ dẫn cho những
1.Đường Mây Trên Đất Hoa Cuộc đời tu tập và hành đạo kéo dài suốt một trăm hai mươi năm của Hòa thượng Hư Vân không chỉ là tấm bản đồ chỉ dẫn cho những
**Quảng Ngãi** là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ. Phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía tây và phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp Biển Đông. ## Thời Chúa
**Ngải cứu** còn có tên **thuốc cứu**, **nhả ngải** (tiếng Tày), **bắc ngải**, danh pháp hai phần: **_Artemisia vulgaris_**, là một loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae). Ngải cứu là cây thân thảo, sống
**Ngải cứu** còn có tên **thuốc cứu**, **nhả ngải** (tiếng Tày), **bắc ngải**, danh pháp hai phần: **_Artemisia vulgaris_**, là một loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae). Ngải cứu là cây thân thảo, sống
thumb|Ngai vàng của Vua Tây Ban Nha tại Cung điện Vương thất ở thủ đô [[Madrid]] Vương quốc Tây Ban Nha hiện vẫn còn áp dụng chế độ kế vị theo _Male-preference primogeniture_ (con trưởng
**Nguyễn Chánh**, còn gọi là **Chí Thuần** (1 tháng 8 năm 1914 - 24 tháng 9 năm 1957) là một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã có đóng góp lớn với
**Nguyễn Chánh**, còn gọi là **Chí Thuần** (1 tháng 8 năm 1914 - 24 tháng 9 năm 1957) là một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã có đóng góp lớn với
thumb|Quyền kế vị ngai vàng thuộc về các hậu duệ hợp pháp của [[Léopold I của Bỉ|Vua Léopold I.]] Tình đến năm 2014, có tất cả 14 người được liệt kê vào **Danh sách kế
thumb|Quyền kế vị ngai vàng thuộc về các hậu duệ hợp pháp của [[Léopold I của Bỉ|Vua Léopold I.]] Tình đến năm 2014, có tất cả 14 người được liệt kê vào **Danh sách kế
thumb|Quyền kế vị ngai vàng thuộc về các hậu duệ hợp pháp của [[Léopold I của Bỉ|Vua Léopold I.]] Tình đến năm 2014, có tất cả 14 người được liệt kê vào **Danh sách kế
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Mỹ Ngãi là một tổ chức kinh tế tập thể hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, tọa lạc tại xã Mỹ Ngãi, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi **Thành cổ Quảng Ngãi**, còn gọi là **Cẩm thành** hay **thành Gấm**, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam.
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi **Thành cổ Quảng Ngãi**, còn gọi là **Cẩm thành** hay **thành Gấm**, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam.
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi **Thành cổ Quảng Ngãi**, còn gọi là **Cẩm thành** hay **thành Gấm**, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam.
**Ngải Vị Vị** (chữ Hán: 艾未未, phiên âm: Ai Weiwei) sinh ngày 28 tháng 8 năm 1957, là một nghệ sĩ, nhà hoạt động, và nhà triết học người Hoa hoạt động tích cực trong
**Người H'rê**, còn có tên gọi khác là **Chăm Rê**, **Chom Krẹ**, **Lùy**, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. ## Tên gọi Tên gọi của người Hrê trước đây
**Người H'rê**, còn có tên gọi khác là **Chăm Rê**, **Chom Krẹ**, **Lùy**, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. ## Tên gọi Tên gọi của người Hrê trước đây
**Người H'rê**, còn có tên gọi khác là **Chăm Rê**, **Chom Krẹ**, **Lùy**, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. ## Tên gọi Tên gọi của người Hrê trước đây
thumb|upright|Ngai vàng bằng bạc được các đời [[vua Thụy Điển sử dụng từ năm 1650]] thumb|upright|Công chúa Victoria và con gái, Công chúa Estelle đang ở vị trí thứ 1 và thứ 2 trong danh
thumb|upright|Ngai vàng bằng bạc được các đời [[vua Thụy Điển sử dụng từ năm 1650]] thumb|upright|Công chúa Victoria và con gái, Công chúa Estelle đang ở vị trí thứ 1 và thứ 2 trong danh
thumb|upright|Ngai vàng bằng bạc được các đời [[vua Thụy Điển sử dụng từ năm 1650]] thumb|upright|Công chúa Victoria và con gái, Công chúa Estelle đang ở vị trí thứ 1 và thứ 2 trong danh