✨Nguyễn Thị Rịa
Nguyễn Thị Rịa (1665 – 1759) hay Bà Rịa, Tiên nữ Nương Nương, là một người Việt Đàng Trong thời Chúa Nguyễn. Bà được biết đến là một nhân vật kiên định, nhân từ, giản dị, từ trẻ đã cùng nhóm người thời Nguyễn vào Nam lập nghiệp, góp phần đóng góp công cuộc khai phá, lập ấp xứ Đàng Trong; tạo nên cộng đồng người dân ở vùng đất mới, lãnh đạo người dân địa phương cùng vượt qua khó khăn để sinh sống. Trong lịch sử Bà Rịa – Vũng Tàu, bà được người dân tưởng nhớ, thờ tụng, mang ảnh hưởng lớn, được cho rằng: tên của bà lấy để đặt cho các địa danh thành phố Bà Rịa và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tiểu sử cuộc đời
Xuất thân và di dân vào Nam
Bà Rịa sinh năm 1665 tại dinh Trấn Biên, tỉnh Phú Yên ngày nay. Năm 1680, khi 16 tuổi thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687), bà theo đoàn lưu dân đi từ dinh Trấn Biên – Phú Yên vào Nam lập nghiệp. Trước thời kỳ đó, năm 1578, Chúa Nguyễn Hoàng cử Phù Nghĩa Hầu Lương Văn Chánh đưa lưu dân, những người nghèo không sản nghiệp vào vùng đất từ Nam đèo Cù Mông đến đèo Cả khai hoang lập ấp, chính thức mở đầu sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong trong công cuộc Nam tiến. Nơi đoàn người di dân tới là vùng đất rộng lớn, có địa hình lồi lõm phức tạp, đầm lầy lau sậy thành hệ thống lớn. Khu vực này nhiều thú dữ và không có cộng đồng sinh sống.
Đợt khai phá thứ hai (1698 – 1700), Bà Rịa một lần nữa xung phong hướng dẫn đoàn người khai phá tiếp phần đất trống Mỹ Khê trên 300 mẫu ruộng, chạy dài về Đông Nam hơn 10.000 thước, khoảng hai đợt gần 1.500 mẫu ruộng vườn. Bà có công khai khẩn, tự lực tự cường, tăng phần lương thực nuôi quân.'' và sắc phong cho mang họ nhà Chúa, từ đó bà có tên là Nguyễn Thị Rịa.
Bà Rịa có cuộc đời trải qua năm đời Chúa, gồm Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620 – 1687), Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1650 – 1691), Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725), Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1697 – 1738), Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714 – 1765); mất năm 1759 thời Vũ Vương tại Hắc Lăng, Phước Liễu hưởng thọ 94 tuổi. Bà Rịa không có chồng, con cái, từng sở hữu 300 mẫu ruộng sau quá trình khai khẩn; khi qua đời, ruộng được sung vào công điền chia cho người nghèo. Cổng của khu mộ được sơn màu vàng, với mái ngói đỏ tươi. Trên cổng có tấm bảng màu nâu với hàng chữ vàng nhạt: Mộ Bà Rịa. Bên trong khuôn viên khu mộ rộng lớn là những hàng trúc, tre đằng ngà, bồ đề cùng nhiều cây cổ thụ lớn. Nằm giữa khu mộ là ngôi nhà hình lục giác có bia tưởng niệm bằng đá granit đen ghi công lao Bà Rịa được đặt trên mình con rùa bằng đá granit xám. Ngôi mộ chính được sơn màu xanh da trời nổi bật lên giữa vòng thành đá ong màu nâu thẫm. Đền thờ làm nơi hương khói, với tên gọi bà là Nguyễn Thị Rịa Tiên nữ Nương Nương trong câu đối:
Bà Rịa anh linh di vạn cổ,Phần bia mộ của bà khắc dòng chữ Nguyễn Thị Rịa tiên nương. Năm 1902, Trường Viễn đông bác cổ Đông Dương (École française d'Extrême-Orient, EFEO) xây lại mộ Bà Rịa. Vào năm 1936 dưới thời tổng An Phú Thượng, tỉnh Bà Rịa và năm 1972 dưới thời tỉnh Phước Tuy, chính quyền sở tại hai lần cho trùng tu lại khu mộ của Nguyễn Thị Rịa. Ngôi mộ được người dân địa phương, doanh nghiệp, doanh nhân trong tỉnh góp sức ủng hộ, bảo tồn. Vào năm 2010, Ủy ban Nhân dân huyện Long Điền lập điện thờ, sửa sang, cử người trông coi và hương khói mộ của bà ở xã Tam Phước, huyện Long Điền. Giỗ bà Nguyễn Thị Rịa được người dân quanh vùng tổ chức vào ngày 16 tháng 06 Âm lịch hàng năm, lễ cúng lúc 12 giờ. Kỳ giỗ này đã trở thành phong tục mà nhân dân địa phương tiến hành thường niên, tưởng nhớ công ơn người phụ nữ có công khai hoang mở đất, lập làng năm xưa.
Nương nương hiển hách chứng thiên kim.
Ảnh hưởng
Bà Nguyễn Thị Rịa có nhiều ảnh hưởng tới tên gọi địa phương. Sau khi bà mất, cây cầu nối Tam Phước – An Nhất, nơi Bà Rịa khai hoang 300 mẫu ruộng được mang tên là cầu Bà Nghè. Đến năm 1865, thực dân Pháp chia toàn cõi Nam Kỳ thành 13 sở tham biện. Phủ Phước Tuy của nhà Nguyễn bấy giờ được mang tên là sở tham biện Bà Rịa. Ngày 05 tháng 01 năm 1876, thực dân Pháp chia ba tỉnh Biên Hoà, phủ Phước Tuy chính thức mang tên là tỉnh Bà Rịa. Ngày 12 tháng 08 năm 1991, tại kỳ họp của Quốc hội Việt Nam khóa XIII, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thành lập tỉnh dựa trên ghép tên Bà Rịa. Từ năm 2012, tên Bà Rịa được đặt cho thành phố trung tâm hành chính – chính trị, tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Bà Rịa.
Một số vấn đề
Cách gọi khác vùng Bà Rịa
Năm 1998, tại Tam An (Tam Phước và An Nhứt ngày nay), huyện ủy Long Điền tổ chức hội thảo bàn về vấn đề trùng tu mộ Bà Rịa, đồng thời thống nhất một số nội dung lịch sử. Những vấn đề chưa được đồng thuận được nêu ra trong hội thảo này.
Vấn đề về Gia Định Thành thống chí: Gia Định Thành thống chí của Trịnh Hoài Đức bên cạnh ca ngợi bà Nguyễn Thị Rịa cũng viện dẫn tài liệu Trung Quốc đưa ra một số giả thiết để cắt nghĩa địa danh Bà Rịa và xếp loại đây là một địa danh chưa rõ ràng bởi có nhiều cách giải thích khác nhau. Các tác giả dựa vào thư tịch cổ Trung Quốc, cụ thể là Tân Đường thư, có viết: "Bà Ly ở ngay phía Đông Nam Chiêm Thành từ Giao Châu đi ghe theo biển, trải qua các nước Xích Thố, Đan Đan rồi đến đại địa châu Đà Mã (cũng gọi là Mã Lễ, quốc tục xỏ tai, đeo hoa, lấy một bức vải quấn ngang lưng) phía nam nước ấy có Thủ Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (651 – 655) bị Chân Lạp thôn tính". Căn cứ Tân Đường thư, Trịnh Hoài Đức viết: Bà Rịa là ở đầu biên giới trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, cho nên các phủ phía Bắc có câu ngạn (ngữ) rằng "Cơm – Nai – Nịa, Cá Rí – Rang".
Trịnh Hoài Đức là người Minh Hương, tuân thủ đặc điểm ngữ âm tiếng Hán nên ông cắt nghĩa: Tra theo chánh văn thì chữ Lợi âm là lục địa, thiết âm là lịa, vậy nghi chữ Bà Rịa tức là nước Bà Lợi thuở xưa. Một số học giả theo hướng giải thích địa danh Bà Rịa bắt nguồn từ vương quốc Bà Lợi, Bà Ly, Bà Lịa hoặc cho rằng Bà Rịa vẫn là tên đất (Bàn Ray, Bàn Rey) do biến âm trở thành Bà Rịa.
Khẳng định Bà Rịa
Nguyên tắc ảnh hưởng: địa danh Bà Rịa được cấu tạo theo phương thức chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa – một người phụ nữ quê gốc Phú Yên có công to lớn khai khẩn vùng đất này từ lâu đã trở thành nguyên tắc phổ biến được biết đến bởi nhân dân vùng miền. Dùng nhân danh chuyển hóa thành địa danh là phương thức cấu tạo địa danh quen thuộc của địa danh học. Các nhà nghiên cứu người Pháp đồng tình theo hướng này.
Trong danh mục "Các họ đạo của xứ Đồng Nai từ năm 1747 có ghi rõ Bà Rịa có 140 giáo dân và Đất Đỏ có 350 người theo đạo Công giáo". Như vậy vùng đất có địa danh Bà Rịa đã có từ trước đó rất lâu. Địa danh Bà Rịa được chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa. Quan điểm này được soi sáng và có căn cứ vững chắc dưới nhiều phương pháp tiếp cận khoa học về lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa dân gian. Về mặt lịch sử, từ dinh Trấn Biên (Phú Yên), theo tiếng gọi của các chúa Nguyễn, có nhiều đoàn di dân được Nhà nước tổ chức khai khẩn vùng đất biên cảnh ở Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay) trong thế kỷ XVII, trong đó có bà Nguyễn Thị Rịa.Về mặt dân tộc học, có tài liệu của Trung Quốc như Hán thư, Đường thư chỉ đề cập đến quận Nhật Nam mà Nhà Hán đã từng tạm chiếm. Biên giới quận Nhật Nam là Lăng già Bát Bạt Đa (phiên âm địa danh Chăm Linga Pravta – Linga đại sơn thần) – tức núi Đá Bia. Ngoài ngọn núi này là Nhật Nam ngoại khiếu. Tân Đường thư đề cập đến Vương quốc Bà Ly không đủ tin cậy. từ Bà Lợi, Bà Ly, Bà Lịa thành Bà Rịa hoặc từ Bà Ray – Bàn Rey thành Bà Rịa.
