✨Nguyễn Thụy Nga
Nguyễn Thụy Nga (1925–2018), còn có bí danh là Nguyễn Thị Vân hay Bảy Vân, là một nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam và là người vợ thứ hai của cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Bà chủ yếu sống và làm việc tại miền Nam sau khi kết hôn, nên thường được gọi là "người vợ miền Nam" của Lê Duẩn. Trong những năm cuối đời, bà để lại một bản hồi ký chưa được xuất bản rộng rãi, cung cấp nhiều tư liệu về cuộc đời của Lê Duẩn cũng như bối cảnh chính trị – xã hội Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh và hậu chiến.
Thân thế và thiếu thời
Nguyễn Thụy Nga sinh năm 1925 tại xã Tam Hiệp, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Bà xuất thân trong một gia đình trí thức; cha của bà là chủ bút tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) thời thuộc địa. Từ nhỏ, Nguyễn Thụy Nga đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng: gia đình bà thường đón các chiến sĩ cộng sản về trú ẩn, và bà tham gia làm giao liên từ tuổi thiếu niên. Mới 14 tuổi, bà đã bí mật mang truyền đơn, vũ khí, vàng bạc trong cặp sách đến cho lực lượng kháng chiến, nhiều lần thoát hiểm trong gang tấc. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, hưởng ứng lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến, Nguyễn Thụy Nga rời gia đình để tham gia Việt Minh khi vừa tròn 20 tuổi, mang theo hành trang chỉ là một tà áo dài tím của nữ sinh.
Tham gia chống Pháp ở Nam Bộ, Nguyễn Thụy Nga công tác trong Hội Phụ nữ Cứu quốc Việt Nam và nhanh chóng trở thành một cán bộ nòng cốt. Năm 25 tuổi (1950), bà được bầu làm Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Cần Thơ và giữ chức Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Trước đó, bà cũng từng làm Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Bạc Liêu. Ngoài ra, bà trực tiếp tham gia công tác tuyên truyền cách mạng ở chiến trường Nam Bộ. Trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh Đông Dương, Nguyễn Thụy Nga giữ cương vị Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ tỉnh Cần Thơ và Ủy viên Tỉnh ủy Cần Thơ, góp phần vận động phụ nữ tham gia kháng chiến.
Kết hôn
Nguyễn Thụy Nga gặp Lê Duẩn (khi đó là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ) lần đầu vào khoảng năm 1948 tại một hội nghị cán bộ ở Đồng Tháp Mười. Thời điểm này, bà từng có một mối quan hệ tình cảm trước đó, và theo một số nguồn, bà vẫn giữ thái độ kín đáo và tôn trọng mối tình ấy. Lê Duẩn được cho là ấn tượng trước sự thủy chung và nhân cách của bà, từng bày tỏ: "Nếu có lấy vợ, tôi thích người có tình nghĩa thủy chung như chị Nga". Sau một thời gian công tác và tiếp xúc, Nguyễn Thụy Nga dần đồng cảm với quan điểm và lý tưởng của Lê Duẩn. Đến năm 1950, bà chấp thuận trở thành vợ ông. Đám cưới được tổ chức đơn giản bên bờ kênh tại chiến khu U Minh, do Phạm Hùng chủ trì và Lê Đức Thọ làm mối. Trong ngày cưới, Lê Duẩn đã đọc tặng vợ một bài thơ do chính ông sáng tác, bày tỏ sự gắn bó keo sơn "tơ tình ta với ta" của đôi vợ chồng cách mạng: Theo lời kể được trích lại trong một số nguồn báo chí, ông dặn dò bà chăm sóc con cái và nhấn mạnh lý do ở lại là vì trách nhiệm với đồng chí, đồng bào.
Đặt chân tới miền Bắc, Nguyễn Thụy Nga tạm thời ở nhờ nhà Phạm Hùng. Bà được bố trí công tác tại báo Phụ nữ, phụ trách mục tin tức về Nam Bộ, nơi bà dồn nỗi nhớ quê hương vào các trang viết.
Du học Trung Quốc
Khi Lê Duẩn tập kết ra Bắc và đoàn tụ với vợ con sau hơn hai năm xa cách, hai người có cuộc trao đổi thẳng thắn về đề nghị từ cấp trên. Một số nguồn cho biết ông phản đối ý kiến chia tay, cho rằng điều đó đi ngược lại quan điểm về đạo đức cách mạng và trách nhiệm gia đình. Cuối cùng, hai người tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân. Tuy tiếp tục chung sống với Lê Duẩn, Nguyễn Thụy Nga vẫn phải đối mặt với nhiều áp lực từ xã hội và gia đình. Dù được bà Lê Thị Sương chấp nhận và xem như em gái, một số người con riêng của Lê Duẩn với bà Sương được cho là không chấp nhận sự hiện diện của bà Nga. Theo lời kể lại, có lần bà phải tạm rời khỏi nhà sau một mâu thuẫn liên quan đến con riêng của chồng. Bà sang tá túc nhà một người bạn là Ngô Thị Huệ (thường gọi là Bảy Huệ), vợ ông Nguyễn Văn Linh, trước khi được động viên trở về nhà.
Trong 5 năm ở Bắc Kinh, Nguyễn Thị Nga vừa học tập, vừa tham gia quản lý lưu học sinh Việt Nam. Vào dịp Tết Nguyên Đán năm 1958, bà sinh con trai út và đặt tên là Lê Kiên Trung. Theo lời kể của bà, chữ "Trung" mang ý nghĩa "trung trinh", thể hiện tình yêu giữa hai vợ chồng. Sau sự kiện Vũng Rô vào tháng 2 năm 1965, khiến Hải quân Hoa Kỳ tăng cường tuần tra, con tàu chở bà Nga nhiều lần phải vòng ra hải phận quốc tế, chuẩn bị phương án tự hủy để tránh bị bắt. Suốt hai tháng lênh đênh giữa biển, tàu của bà mới đến được bến Cà Mau an toàn. Về phần Nguyễn Thụy Nga, sau năm 1975, bà tiếp tục công tác tại miền Nam trong khi Lê Duẩn sống và làm việc tại Hà Nội, nên hai người thường xuyên sống xa nhau. Bà giữ cương vị Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên huấn – Khoa giáo Tỉnh ủy An Giang, góp phần khôi phục và phát triển công tác tư tưởng, văn hóa ở địa phương thời hậu chiến. Sau khi Lê Duẩn qua đời năm 1986, Nguyễn Thụy Nga sống cùng con cháu tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ cuộc sống tương đối kín đáo.
Cuối đời
Sau khi nghỉ hưu, bà Nguyễn Thụy Nga sống thầm lặng, dành thời gian viết hồi ký ghi lại chặng đường hoạt động và những kỷ niệm cuộc đời. Hồi ký của bà – mang tựa đề Bên nhau trọn đời – cho thấy góc nhìn gần gũi về Lê Duẩn và gia đình, đồng thời trải lòng về những hy sinh thầm lặng của người phụ nữ trong hoàn cảnh đặc biệt. Nhà sử học Nguyễn Thị Liên Hằng (Đại học Columbia, Hoa Kỳ) trong thời gian tìm tài liệu cho cuốn Hanoi's War từng được tiếp cận bản thảo hồi ký chưa xuất bản của Nguyễn Thụy Nga và đánh giá rằng tài liệu này giúp "phác họa đầy đủ hơn" chân dung cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. Theo Liên Hằng, hồi ký của bà Nga cung cấp nhiều chi tiết cá nhân và chuyên môn về cuộc đời Lê Duẩn (như trích đoạn thư từ giữa hai người và những bình luận của bà về sự nghiệp của chồng).
Bà Nguyễn Thụy Nga qua đời vào ngày 26 tháng 10 năm 2018 tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 93 tuổi. Tang lễ của bà được tổ chức tại Nhà tang lễ Thành phố Hồ Chí Minh, với sự tham dự của nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Trong suốt sự nghiệp của mình, Nguyễn Thụy Nga đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều danh hiệu như: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huân chương Giải phóng hạng Nhất, cùng các Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc, Huy hiệu Nam Bộ kháng chiến và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
