✨Niết-bàn

Niết-bàn

Niết-bàn, trong các tôn giáo Ấn Độ (Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Sikh giáo), là trạng thái tận diệt của một con người, giải thoát khỏi khổ và luân hồi.

Từ nguyên

Niết-bàn là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā (2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là khổ diệt, diệt (zh. 滅), diệt tận (zh. 滅盡), diệt độ (zh. 滅度), tịch diệt (zh. 寂滅), bất sinh (zh. 不生), viên tịch (zh. 圓寂).

Tổng quan

Niết bàn là một thuật ngữ xuất hiện trong kinh điển của tất cả các tôn giáo Ấn Độ – Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Phật giáo và Sikh giáo. Niết bào là trạng thái tâm tĩnh lặng, hết sạch phiền não sau khi được giải thoát, đoạn triệt luân hồi hoặc không còn khổ sau khi tu hành.

Phật giáo

phải|nhỏ|275x275px|Tranh tường vẽ cảnh [[Thích-ca Mâu-ni bát-niết-bàn, ở Chùa Botum, Phnôm Pênh, Campuchia]] Niết-bàn là cứu cánh cứu độ trong Phật giáo: sự tận diệt khổ và giải thoát khỏi luân hồi. Kinh điển Phật giáo xác định có "ba ngọn lửa" là tam độc tham, sân và si.

Với sự xuất hiện của Đại thừa, người ta có một quan điểm mở rộng của Niết-bàn dựa trên khái niệm Bồ Tát (zh. 菩薩, sa. bodhisattva, pi. bodhisatta). Ở đây Niết-bàn được xem như hết khổ, khi có sự giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi tham ái.

Trong nhiều kinh sách, người ta miêu tả Niết-bàn như một "ngọn lửa đã tắt". Đó là xuất thế (zh. 出世; sa. lokottara) và chỉ có những hành giả đã đạt mới biết được. Vì vậy, trong Phật giáo nguyên thủy, Niết-bàn được hiểu là giải thoát khỏi phiền não. Tập bộ kinh (pi. suttanipāta) miêu tả như sau (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):

**Nguyên văn tiếng Pāli:**

:accī yathā vātavegena khitto, atthaṃ paleti na upeti sankhaṃ, :evaṃ munī nāmakāyā vimutto, atthaṃ paleti na upeti sankhaṃ. ||1074||

:atthan gatassa na pamāṇaṃ atthi, yena naṃ vajju taṃ tassa n`atthi :sabbesu dhammesu samūhatesu, samūhatā vādapathā pi sabbe. ||1076||

Dịch nghĩa:

:Như ngọn lửa (pi. accī) đã bị sức mạnh của cơn gió (pi. vātavega) dập tắt, đến nơi an nghỉ, không thể được định nghĩa—cũng như vậy, một mâu-ni đã được giải thoát ra khỏi danh xưng và thân xác (pi. nāmakāya) đi về chốn an nghỉ, vượt khỏi mọi định nghĩa.||1074||

:Người đã đến chỗ an nghỉ thì người ta không thể dùng sự quy ước (pi. pamāṇa) để diễn tả ông ta. Cái đó không thuộc về ông ta. Khi tất cả các pháp (ý tưởng) đã tiêu diệt thì tất cả những phương tiện ngôn ngữ (pi. vādapatha) cũng tiêu diệt.||1076||

Trong một số kinh sách khác, Niết-bàn được hiểu là sự "an lạc" nhưng phần lớn được hiểu là sự giải thoát khỏi khổ.

Niết-bàn theo quan điểm của Thích-ca Mâu-ni

Niết-bàn có 2 loại, đó là:

  • Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-la-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: tất cả mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
  • Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-la-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ, đó là:

  • Vô-hiện-tượng Niết-bàn(Animittanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna): Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
  • Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna): Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
  • Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna): Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ- Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.

Ấn Độ giáo

Theo Ấn Độ giáo, Niết-bàn là sự thật tuyệt đối. Theo S.K. Belvalkar thì khái niệm Niết-bàn này xuất hiện trước khi Phật giáo được thành lập. Theo trường sử thi Mahābhārata thì Niết-bàn được xem là sự tịch tĩnh (sa. śānti) và sự thỏa mãn (sa. susukkti). Trong tác phẩm Anugītā, Niết-bàn được xem như "một ngọn lửa không có chất đốt". Chí Tôn ca như chủ ý nhấn mạnh tính đối nghịch với khái niệm Niết-bàn trong Phật giáo vì bài này miêu tả Niết-bàn như sự chứng đắc Brahma (sa. brahman, 2,71). Du-già sư (sa. yogin) ở đây không được xem như một ngọn đèn đã tắt (như trong Phật giáo), mà là một ngọn đèn không đứng giữa cơn gió, không bị lay chuyển (6,19). Chứng đạt Niết-bàn được gọi là giải thoát (sa. mokṣa).

Kỳ Na giáo

Văn học Kỳ Na giáo luân phiên sử dụng thuật ngữ giải thoát và niết-bàn.

Sikh giáo

👁️ 65 | ⌚2025-09-16 22:26:15.708

QC Shopee
**Niết-bàn**, trong các tôn giáo Ấn Độ (Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Sikh giáo), là trạng thái tận diệt của một con người, giải thoát khỏi khổ và luân hồi. ## Từ
MÔ TẢ SẢN PHẨM Ðại Bát Niết Bàn là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật Giáo Nam Tông và Phật
MÔ TẢ SẢN PHẨM Ðại Bát Niết Bàn là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật Giáo Nam Tông và Phật Giáo
- Sách mới Xuất Bản: TÌM HIỂU VỀ NIẾT-BÀN (ON THE NATURE OF NIBBÃNA) - Tác Giả: Tôn giả Mahãsi Sayadaw - Dịch: TK. Pháp Thông - Hình thức: Bìa mềm có tay gấp – Số
nhỏ|235x235px|Bản kinh Đại thừa Đại-bát Niết-bàn vào thời [[nhà Tùy (Trung Hoa)]] **Đại thừa Đại Bát-niết-bàn Kinh** (Tiếng Phạn: महापरिनिर्वाण सूत्र, IAST: _Mahāparinirvāṇa Sūtra_, chữ Hán: 大般涅槃經, Bính âm: _Dàbānnièpán-jīng_) là một trong những bộ
Giới thiệu sách : Kinh đại bát niết bàn ( bộ 2 tập ) là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của
Niết Bàn - Ác Mộng Cuối Cùng - Học Tin Cậy Vào Cuộc Sống - Những Công Án Thiền Như Phương Tiện Truyền Dạy Sự Thư Thái Trong phần lớn truyền thống tâm linh phương
Niết Bàn - Ác Mộng Cuối Cùng Trong phần lớn truyền thống tâm linh phương Đông, niết bàn được xem là đích đến tối hậu: trạng thái giải thoát hoàn toàn khỏi khổ đau, luân
**Bát-niết-bàn** (zh. 般涅槃, sa. _parinirvāṇa_, pi. _parinibbāna_) là tịch diệt hoàn toàn, thường dùng để chỉ Niết-bàn (sa. _nirvāṇa_) sau khi chết, xảy ra sau cái chết của một người đã đạt niết bàn trong
Đây là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật Giáo Nam Tông và Phật Giáo Bắc Tông. Kinh Ðại Bát Niết
**Kinh Đại Bát-niết-bàn** (pi. _Mahāparinibbāṇa Sutta_) là bộ kinh do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trước khi Ngài qua đời. Tại Việt Nam, có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật giáo Nam Tông
Niết bàn: Ác mộng cuối cùng tập hợp các bài giảng của Osho – bậc thầy tâm linh người Ấn Độ – bàn về những nghịch lý sâu sắc trong hành trình thiền định và
**Niết Bàn Tịnh Xá** là một ngôi chùa nằm bên triền Núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu. Tịnh xá được Hòa thượng Thích Thiện Huệ tổ chức xây dựng từ năm 1969 đến năm 1974
Combo Kinh Đại Bát Niết Bàn Kinh Đại Bát Niết – bàn đề cập đến hầu như tất cả những vấn đề liên quan đến sự tu tập của người Phật tử, vì đây là
Niết bàn: Ác mộng cuối cùng tập hợp các bài giảng của Osho – bậc thầy tâm linh người Ấn Độ – bàn về những nghịch lý sâu sắc trong hành trình thiền định và giác
Sách: DHAMMAPADA!!! (Pháp Dẫn Đến Niết Bàn) Trọn Phẩm Yamaka và Trọn Phẩm Citta Tác giả: U Shwe Aung Chuyển ngữ: Sư Hộ Giới --- DHAMMAPADA – Sư Hộ Giới dịch —-với 13 câu chuyện
Truyện Tranh Đức Phật Thích Ca - Từ Hành Đạo Đến Nhập Niết Bàn - Tập 3   Đức phật Thích ca một trong vài bậc vĩ nhân của loài người, đã nhập diệt hơn
Bảy Thanh Hung Giản 4 - Phượng Hoàng Niết Bàn - Quan Tứ Thần Lâu Thời thượng cổ, có bảy luồng ác khí, phàm những người tiếp xúc với chúng đều đột nhiên biến đổi
Bảy Thanh Hung Giản 4 - Phượng Hoàng Niết Bàn - Quan Tứ Thần Lâu Thời thượng cổ, có bảy luồng ác khí, phàm những người tiếp xúc với chúng đều đột nhiên biến đổi
Niết bàn có nghĩa là giải thoát, là tự do. Ta đâu cần phải chết đi mới có được cái cảm giác giải thoát và tự do đó. Nhiều người nghĩ rằng Niết bàn (Nirvãna) 
Niết bàn có nghĩa là giải thoát, là tự do. Ta đâu cần phải chết đi mới có được cái cảm giác giải thoát và tự do đó. Nhiều người nghĩ rằng Niết bàn (Nirvãna)
Niết bàn có nghĩa là giải thoát, là tự do. Ta đâu cần phải chết đi mới có được cái cảm giác giải thoát và tự do đó. Nhiều người nghĩ rằng Niết bàn Nirvãna
Thông Tin Chi Tiết - Tác Giả: Osho - Dịch Giả: Hà Thủy Nguyên - Số Trang: 262 trang - Nhà xuất bản: Phụ Nữ - Nhà phát hành: Lyceum - Ngày Phát hành: 06/2025
Phật bản mệnh là Phật bảo hộ cho những người thuộc từng con giáp khác nhau. Mỗi con giáp sẽ được bảo hộ bởi một Phật bản mệnh riêng bên cạnh những đức Phật khác
Bước Tới Thảnh Thơi Tái bản năm 2022 Sa di nam, tiếng Phạn là Sramanera, và Sa di nữ là Sramanerika. Sa di thường được dịch là tức từ. Tức là chấm dứt, quyết tâm
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này,
Tam Tạng kinh điển của nhà Phật mênh mông như rừng, nhưng tất cả đều có cùng một mục đích là từng bước, chỉ chochúng sinh con đường tháo bỏ gông cùm của vô minh phiền não tham sân si, vượt qua dòng sinh tử luân hồi, đến được bờ hoàn toàn giải
**Chi Niệt dó** (danh pháp khoa học: **_Wikstroemia_**) là một chi gồm 55-70 loài cây bụi có hoa và cây cỡ nhỏ thuộc họ trầm, Thymelaeaceae. ## Dược thảo _Wikstroemia indica_ (; âm Hán Việt:
Tam vô lậu học là ba môn học thù thắng mang dấu ấn đặc trưng của Phật giáo. Sau khi Đức Phật thành đạo, bánh xe Pháp đã được chuyển, vương quốc trí tuệ ra đời.
NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG : THÔNG ĐIỆP KINH LĂNG GIÀ Ngã tòng mỗ dạ đắc tối chính giác, nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết-bàn, ư kỳ trung gian nãi chí bất thuyết nhất
Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa xuất gia. Đạo Bụt không phải chỉ dành cho những người xuất gia, chán
Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa xuất gia. Đạo Bụt không phải chỉ dành cho những người xuất gia, chán
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn. Pháp của Đức Phật bao quát một lãnh vực rộng về
Trái Tim Của Bụt Trái tim của Bụt là những ghi chép tổng hợp những bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong Khóa học Phật Pháp Căn Bản tại Làng Mai, Loubes-Bernac, Pháp. Những
Trái Tim Của Bụt Trái tim của Bụt là những ghi chép tổng hợp những bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong Khóa học Phật Pháp Căn Bản tại Làng Mai, Loubes-Bernac, Pháp.
Trái tim của Bụt là những ghi chép tổng hợp những bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong Khóa học Phật Pháp Căn Bản tại Làng Mai, Loubes-Bernac, Pháp. Những bài học đầu tiên
Phật bản mệnh là Phật bảo hộ cho những người thuộc từng con giáp khác nhau. Mỗi con giáp sẽ được bảo hộ bởi một Phật bản mệnh riêng bên cạnh những đức Phật khác
Thực Tại Xưa Nay Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong
Thực Tại Xưa Nay ------------   THỰC TẠI XƯA NAY Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là
THỰC TẠI XƯA NAY Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh
Bồ Tát Tại Gia - Bồ Tát Xuất Gia (Tái Bản Lần 1) ------------ Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa
Do đó, từ khi có sự phân chia Bộ chúng, khoảng 500-600 năm sau Phật niết bàn, Đại chúng Bộ về sau gọi là Đại Thừa một mặt kế thừa và hoằng dương giáo lý
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là