✨Thạch Đào
Thạch Đào (; pháp hiệu Nguyên Tể (), 1642–1707), là nhà sư Phật giáo, nhà thư pháp và họa sĩ phong cảnh Trung Quốc vào đầu thời nhà Thanh. Ông và ba người khác là , , cùng được tôn xưng là "Tứ tăng" thời Minh mạt Thanh sơ.
Tiểu sử
Tên
Thạch Đào vốn họ Chu, tên Nhược Cực (若極), là một tông thất nhà Minh. Trong suốt cuộc đời của mình, Thạch Đào đã sử dụng hơn 20 cái tên (bao gồm biểu tự, pháp hiệu, biệt hiệu) khác nhau. Trường hợp của Thạch Đào khá tương tự với Bát Đại Sơn Nhân, nhưng điểm khác nhau giữa hai người chính là tình cảm của Thạch Đào đối với dòng tộc và triều đại có thể dễ dàng thấy được từ những cái tên ông chọn cho mình.
Chu Nhược Cực khi còn nhỏ có tiểu tự là A Trường (), về sau khi nhà Minh sụp đổ, ông sử dụng nhiều cái tên khác nhau để ký tên vào những tác phẩm của mình. Những cái tên phổ biến nhất có thể kể đến là Thạch Đào, Đạo Tể (), Hạt tôn giả (), Khổ Qua hòa thượng (); ngoài ra ông còn có hiệu Thanh Tương lão nhân (). Với tư cách là một tu sĩ Phật giáo, Thạch Đào thường được biết đến với các pháp danh Thích Đạo Tể () và Nguyên Tể (), đặc biệt là Nguyên Tể được ông sử dụng nhiều nhất. Đến những năm cuối đời, sau khi từ bỏ Phật giáo để đến với Đạo giáo, ông đã đặt tên cho ngôi nhà của mình ở Dương Châu là Đại Địch đường (), cũng từ đây là sử dụng tên hiệu Đại Địch Tử ().
Cuộc đời
Chu Nhược Cực là con trai của Chu Hanh Gia (), hậu duệ của Tĩnh Giang vương Chu Tán Nghi. Sau khi Sùng Trinh Đế tự vẫn, nhà Minh diệt vong dưới tay Lý Tự Thành, Phúc vương Chu Do Tung xưng giám quốc ở Nam Kinh, lập ra nhà Nam Minh. Không lâu sau, Chu Do Tung qua đời, Đường vương Chu Duật Kiện liền tự xưng giám quốc ở Phúc Châu. Lúc bấy giờ, Chu Hanh Gia cũng có ý đồ tự xưng giám quốc ở Quế Lâm nhưng không thành, bị tướng lĩnh dưới quyền Chu Duật Kiện giết chết. Nhược Cực được một hoạn quan cứu sống, bỏ trốn từ Quế Lâm đến Toàn Châu. Vì để bảo vệ tính mạng, ông đã xuống tóc xuất gia tại chùa Tương Sơn () với pháp danh Nguyên Tể, đổi tên thành Thạch Đào.
Thạch Đào vốn thích phiêu bạt, dạo chơi bốn phương. Khoảng năm 1660 dưới triều Khang Hy, ông dừng chân ở An Huy. Trong hơn 10 năm sống tại những ngôi chùa ở Tuyên Thành, Thạch Đào không chỉ kết giao nhiều họa sĩ mà còn khổ luyện khả năng hội họa của mình. Sau đó thì ông chuyển đến Giang Ninh. Trong 2 lần nam tuần của Khang Hi vào năm 1684 và 1689, Thạch Đào đã lần lượt tiếp giá ở Nam Kinh và Dương Châu, dâng lên tác phẩm của mình và tự xưng là "Thần tăng". Khoảng đầu những năm 1690 thì ông chuyển đến Bắc Kinh, kết giao với nhiều quan lại quyền quý và quen biết nhiều tri kỷ trong giới hội họa. Đến năm 1693, thất vọng vì không tìm được người có thể hỗ trợ mình thăng tiến hơn trong hệ thống Phật giáo, ông quyết định trở về Dương Châu, nơi ông định cư đến cuối đời. Khoàng 3 đến 4 năm sau khi trở về Dương Châu, ông bắt đầu có hứng thú Đạo giáo và dần chuyển sang tôn giáo này. Tháng 7 năm 1707 dưới triều Khang Hi, Thạch Đào bệnh nặng, không lâu sau thì qua đời. Hiện nay, mộ phần ông vẫn có thể tìm thấy sau chùa Đại Minh ở Dương Châu.
Một số tác phẩm nổi bật
nhỏ|Thác nước trên núi Lư|477x477px
Bảo tàng Tô Châu? Shitao0.jpg|_Ái liên đồ_
Bảo tàng Nghệ thuật Canton. ShiTao Riverbank of Peach Blossoms.jpg|_Sông hoa đào_
Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan New York. Shitao-Qinhuai.jpg|_Ký ức về Tần Hoài_
Cleveland Museum of Art Illustrations in the Spirit of Tao Yuanming's Poems 02.jpg|Minh họa theo thơ của Đào Tiềm
Bảo tàng Cố cung Mingxianquan and Hutouyan by Shitao.jpg|_Thác Minh Huyền tuyền và núi Hổ Đầu_
Sen-oku Hakuko Kan (Sumitomo Collection), Kyoto. Shitao02.jpg|_Hoàng Sơn đồ_ Tao Chi 003.jpg|_Mùa xuân trên sông Mân_ (1697)
Bảo tàng nghệ thuật Cleveland Shitao03.jpg Shitao04.jpg Shitao05.jpg
Gia đình

* Trung Sơn Đông Lộ (中山东路街道) * Bành **Thạch tùng đuôi ngựa**, hay còn gọi là **râu cây, râu rồng cảnh, mã vĩ sam**, (danh pháp khoa học: **_Huperzia phlegmaria_**) là một loài thực vật có mạch trong Họ Thạch tùng. Loài này |