✨Vũ Soạn
Vũ Soạn (01 tháng 10 năm 1922 - 26 tháng 5 năm 2021) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam, Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều cống hiến trong 2 cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ góp phần cho công cuộc thống nhất đất nước. Ông nguyên là quyền Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị, nguyên Khu ủy viên Khu ủy Trị Thiên Huế và nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Tiểu sử và sự nghiệp
Vũ Soạn tên thật là Võ Hữu Kim , ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1922 tại xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Mất ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại nhà riêng, thuộc Phường Vĩnh Ninh, Thành phố Huế
Tháng 6 năm 1939 ông bắt đầu tham gia hoạt động Cách mạng trong tổ chức Thanh niên Dân chủ, Thanh niên Phản đế tại xã Triệu Quang (nay là Triệu Long), huyện Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị.
Tháng 5 năm 1940 ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, là Chi ủy viên thuộc Chi bộ Đâu Kênh, xã Triệu Quang (nay là Triệu Long), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
Từ tháng 10 năm 1942 đến tháng 3 năm 1945 là Tổ trưởng Tổ Đảng nhà lao Quảng Trị, sau đó Nhật đảo chính Pháp thoát tù.
Từ năm 1945 đến năm 1946 ông là Ủy viên Thường vụ Ủy ban Việt Minh tổng Bích La, Thường vụ Ủy ban Thanh niên cứu quốc Triệu Phong. Tỉnh Quảng Trị.
Từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 5 năm 1954 là Bí thư Huyện ủy, Tỉnh ủy viên kiêm Chính trị viên Huyện đội huyện Quỳnh Côi, Tỉnh Thái Bình.
Từ năm 1961 đến năm 1962, ông được bầu làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Quảng Trị trong Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị năm 1961.
Năm 1965 đến 1966 ông đảm nhiệm lại chức vụ Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội, Trưởng Ban An ninh tỉnh Quảng Trị khi đồng chí Trương Chí Công đi chữa bệnh trở về,.
Từ năm 1967 đến năm 1969, theo đề nghị của Khu ủy, Trung ương chỉ định ông đảm nhiệm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ của Đặc khu Trị Thiên Huế (Khu ủy viên Khu ủy Trị Thiên Huế), đồng thời tham gia Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (Mặt trận B5), kiêm Bí thư Ban cán sự liên huyện Bắc đường 9, Chính ủy Trung đoàn 31 (Mặt trận B5) và Chính ủy Đoàn 7 (Quân khu Trị Thiên).
Từ năm 1972 đến năm 1975, là Khu ủy viên, Trưởng Ban Kiểm tra Đảng kiêm luân phiên Trưởng Ban Tổ chức, Trưởng Ban Tuyên huấn, Trưởng Ban Dân vận, Trưởng Ban Thi đua, Trưởng Ban Binh vận thuộc Khu ủy Trị Thiên Huế.
Từ tháng 5 năm 1976 đến năm 1982, 3 tỉnh Bình Trị Thiên hợp nhất, ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Kiểm tra Đảng kiêm Trưởng ban nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Từ năm 1983 đến năm 1984, ông hết tuổi đảm nhiệm cấp ủy nhưng vẫn làm Trưởng Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Quá trình hoạt động Cách mạng
Năm 1942, Vũ Soạn bị Thực dân Pháp bắt và kết án khổ sai tại nhà lao Quảng Trị. Khi ở trong tù, ông đã chịu các cuộc tra tấn dã man, kiên trung một lòng với Đảng, là tổ trưởng tổ Đảng trong Chi bộ nhà lao Quảng Trị, tham gia lãnh đạo thành công các cuộc đấu tranh của tù nhân chính trị, đặc biệt là cuộc "đấu tranh đòi nghỉ chiều thứ Bảy" ở nhà lao Quảng Trị.
Năm 1966, sau khi Trung đoàn 6 (quân chủ lực Quân khu Trị Thiên Huế) rút quân ở đồng bằng Triệu Hải, quân Giải phóng mất thế liên hoàn chiến đấu giữa 3 vùng chiến lược ở Quảng Trị bao gồm: miền núi, đồng bằng và thị xã Quảng Trị. Nhằm cứu vãn tình hình, ông tìm cách chiếm lĩnh vùng trung tâm đồng bằng giữa 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng biên giới giữa 2 huyện bằng cách chỉ đạo đánh thông đường giao thông chiến lược từ trên núi xuống đồng bằng, rồi đưa lực lượng xuống vùng này để xây dựng căn cứ vững mạnh, từ căn cứ ấy đánh ra phía Bắc và đánh vào phía Nam, mở rộng vùng giải phóng. Nhờ vậy quân Giải phóng đã giành lại được thế liên hoàn ở khu vực này mặc dù không có Trung đoàn 6, vùng giải phóng được mở rộng, mối liên hoàn giữa 3 vùng chiến lược được hình thành trở lại để chuẩn bị phối hợp với chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Ông đã chỉ đạo phát động được phong trào quần chúng làm công tác binh vận thành công tại Bắc Cam Lộ làm cho 2 trung đội dân vệ của Cam Thanh và Cam Giang nổi dậy làm binh biến.
Để cho sự lãnh đạo của Đảng nhanh chóng đến với nhân dân, ông chủ trương giải thể 2 huyện Cam Lộ- Gio Linh, lập liên huyện Gio-Cam và vạch ra nghị quyết của Huyện ủy sát đúng với đặc điểm của Cam Lộ, Gio Linh là một chiến trường vũ trang là chủ yếu. Chiến lược của ông luôn là dành thế áp đảo nhưng tránh thương vong. Cuối năm 1969, ông trở về cơ quan Khu ủy Trị Thiên Huế, được phân công liên tục phụ trách 6 Ban của Khu ủy. Ông hoàn thành nhiệm vụ được giao và góp phần xây dựng mối đoàn kết trong nội bộ Khu ủy..
-
Huân chương Độc lập hạng nhất (Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam)
-
Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhì (Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam)
-
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất (Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam)
-
Huy hiệu Công an nhân dân
