✨Aral

Aral

Aral hay Aralsk hoặc Aral'sk, (tiếng Kazakh: Арал, tiếng Nga: Аральск) là một thành phố nhỏ ở tây nam Kazakhstan, nằm trong oblysy (tỉnh) Kyzylorda. Nó là trung tâm hành chính của huyện Aral. Dân số khoảng 31.000 người (số liệu năm 1999). Aral trước đây là một cảng cá và đồng thời là một thành phố cảng trên bờ phía bắc đông bắc biển Aral. Đây là nơi cung cấp chính về cá cho khu vực cận kề.

Tiếng Việt còn gọi biển Aral là Hàm Hải.

Lịch sử

Được thành lập năm 1905 khi người ta xây dựng tuyến đường sắt Tashkent-Orenburg và trở thành thành phố năm 1938.

Trong thời gian thuộc Liên Xô, tại Aral có 3 khu quân sự đóng cửa là: Aralsk-5 ("Ural") ở phía nam thành phố và Aralsk-6 (hai khu "Chaika" và "Beriozka") cách 6 km về phía tây bắc thành phố, trong khu vực ga đường sắt Zhaltyzagash. Đồn trú tại khu "Ural" là các đơn vị quân sự có nhiệm vụ liên quan tới bãi thử nghiệm hóa-sinh học trên đảo Vozrozhdeniya (đảo Phục Sinh), còn tại khu "Chaika" là các đơn vị bộ đội tên lửa chiến lược, tại khu "Beriozka" là các viên chức của sân bay. Năm 1992, liên quan tới việc giải thể bãi thử nghiệm, cư dân của các khu Aralsk-5 và Aralsk-6 đã được điều động về Nga, các khu này không còn tác dụng và bị tháo dỡ một phần để làm vật liệu xây dựng cho cư dân và Aral "dân sự".

Điều kiện tự nhiên

nhỏ|Cảng Aralska Địa hình của khu vực này là đồng bằng với đồi thấp lưa thưa, độ dốc chung là về phía biển Aral. Độ cao tuyệt đối so với mực nước biển là 55–71 m.

Phần phía đông là cát tạo thành các cồn và hố cát, với thảm thực vật bán cây bụi. Độ cao của các cồn cát và luống cát là 5–25 m, độ sâu của các hố cát từ 3–8 m. Tại các khu vực đồng bằng ở các chỗ bị trũng xuống là các loại đất mặn do muối khô đi tạo thành.

Tại đây không có sông suối với dòng chảy ổn định. Nước có trong các sông suối bị khô kiệt chỉ vào mùa xuân khi tuyết tan và mưa trong mùa xuân. Ở phía nam là vịnh khô kiệt của biển Aral – vịnh Saryshygynak Lớn.

Thảm thực vật sa mạc và bán sa mạc, chủ yếu là các loài cỏ như vũ mâu (Stipa spp., ngải (Artemisia spp.), biyrgun (Anabasis spp.) và bán cây bụi như thánh liễu (Tamarix spp.), dzhuzgun (Calligonum spp.). Khắp nơi phổ biến gai lạc đà (Alhagi pseudaihagi). Trong thành phố ít cây xanh (chủ yếu là du (Ulmus spp.).

Khí hậu

Khí hậu mang tính chất lục địa mạnh, khô hạn, với dao động lớn về nhiệt độ của không khí trong ngày và theo mùa và lượng giáng thủy nhỏ (khoảng 120–140 mm/năm).

Mùa đông (từ giữa tháng 11 tới giữa tháng 3 năm sau) với mây thay đổi và sương mù dày dặc. Nhiệt độ trung bình của không khí trong thời gian ban ngày từ -5 tới -10°С, ban đêm từ -20 tới -25°С (thấp nhất -42°С). Băng giá cố định xuất hiện trong tháng 12. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này vẫn có thể có những ngày ấm lên. Giáng thủy chủ yếu là tuyết. Lớp tuyết phủ hình thành vào khoảng nửa sau tháng 12 và duy trì tới cuối tháng 3; độ dày trung bình không vượt quá 16 cm (dù có những năm tới 30 cm). Độ sâu trung bình của tầng đất bị đông cứng lại là 1,3 m.

Mùa xuân (giữa tháng 3 tới cuối tháng 4) ấm áp với thời tiết không ổn định ở nửa đầu. Nhiệt độ không khí ở đầu mùa về ban ngày là -1 tới -10°С, ban đêm tới -10°С; ở cuối mùa về ban ngày tới +25 °C, ban đêm từ -1°С tới +8 °C. Giáng thủy dưới dạng mưa thoáng qua hay đôi khi có tuyết.

Mùa hè (tháng 5 tới giữa tháng 9) với đặc trưng là thời tiết khô hạn, nóng bức và ít mây. Nhiệt độ không khí ban ngày +30 tới +35°С (tối đa +43 °C), ban đêm hạ xuống tới khoảng từ +15 tới +18°С. Mùa hè thường có các trận gió khô mạnh (bão bụi), tung lên không khí bụi và cát.

Mùa thu (giữa tháng 9 tới giữa tháng 11) nửa đầu mùa khô và ấm, nửa cuối mùa nhiều mây và lạnh dần đi. Nhiệt độ không khí ban ngày từ +5 tới +25°С, ban đêm từ -5 tới +5°С. Giáng thủy dưới dạng mưa bụi còn nữa sau của tháng 11 là tuyết ẩm.

Gió về mùa xuân và mùa hè chủ yếu là hướng tây và tây bắc, mùa thu và mùa đông theo hướng đông và đông bắc. Tốc độ gió chủ yếu trong khoảng 3–7 m/s. Trong năm (đặc biệt khoảng thời gian mùa đông và mùa xuân) có thể thấy các trận gió manh trong các cơn dông bão với vận tốc tới 15 m/s hay cao hơn (trung bình 45 ngày trong năm).

Số ngày trung bình với các hiện tượng thời tiết trong năm: giáng thủy 54 (tháng 1: 7, tháng 6: 3), sương mù 26, bão tuyết 10, dông tố 12. Số lượng ngày trung bình với trời trong xanh là 119, trời u ám với mây xuống thấp 17.

  • Nhiệt độ trung bình +7,8 C°
  • Vận tốc gió trung bình 5,2 m/s
  • Độ ẩm không khí trung bình 60%

Kinh tế-xã hội

Kể từ khi mực nước của biển Aral rút xuống trong thập niên 1960, do việc thủy lợi hóa, chủ yếu để trồng bông, trong thời kỳ thuộc Liên Xô, nên Aral hiện nay hoàn toàn không tiếp xúc với biển và cách biển khoảng 12 km, mặc dù khoảng cách này nhỏ hơn khoảng cách 100 km đã từng xảy ra trước khi hoàn thành con đập ngăn nước vào năm 2005. Với việc con đập đã hoàn thành và mực nước biển lại dâng lên, người ta hy vọng rằng trong năm 2009 thì biển sẽ tiến thêm 6 km tới gần Aral và người ta có thể đào kênh dẫn nước tới biển. Đã trên 25 năm kể từ khi người ta có thể nhìn thấy biển Aral từ thành phố này. Hiện tại Aral bị suy giảm mạnh kể cả về dân số lẫn tầm quan trọng kinh tế-xã hội. Do tỷ lệ thất nghiệp cao nên nhiều cư dân trẻ đã rời bỏ Aral để tới các khu vực khác như Kyzylorda, Baikonur v.v.

Có một số vấn đề về sức khỏe đối với cư dân địa phương do các hóa chất độc hại được sử dụng để xử lý nước và có thể là do các hóa chất và các tác nhân sinh học được lưu trữ không an toàn trại các đảo trên biển Aral.

Tương tự như thành phố Moynaq ở phía nam biển Aral, thành phố này hiện có nhiều tàu đánh cá bị vứt bỏ đã han rỉ nằm trên khu vực trước đây là đáy biển Aral.

Giao thông

Cách 2 km về phía bắc thành phố là đường bộ nối Irgis với Novokazalinsk (một phần của tuyến đường) nối Samara (Kuybyshev) với Chimkent). Tại đây cũng có nhà ga đường sắt với tên gọi nhà ga biển Aral.

Nằm cách 5 km về phía tây bắc thành phố là một sân bay, đã từng được sử dụng để vận chuyển nhu yếu phẩm cho đảo Vozrozhdeniya, cũng như để phục vụ cho công tác cứu hộ-tìm kiếm cho sân bay vũ trụ Baikonur. Từ sân bay này người ta cũng đã thực hiện nhiều chuyến bay tới các điểm dân cư trong khu vực.

👁️ 58 | ⌚2025-09-16 22:27:15.083

QC Shopee
thumb|Biển Aral năm 1989 (trái) và 2014 (phải) thumb|Quá trình thu hẹp của biển Aral từ năm 1960 **Biển Aral** (tiếng Kazakh: Арал Теңізі (_Aral Tengizi_), tiếng Uzbek: Orol dengizi, tiếng Nga: Аральскοе мοре (_Aral'skoye
**Aral** hay **Aralsk** hoặc **Aral'sk**, (tiếng Kazakh: **Арал**, tiếng Nga: **Аральск**) là một thành phố nhỏ ở tây nam Kazakhstan, nằm trong _oblysy_ (tỉnh) Kyzylorda. Nó là trung tâm hành chính của huyện Aral. Dân
Cỗ Máy Thao Túng (Mạng xã hội đã can thiệp vào cuộc sống của chúng ta như thế nào và chúng ta phải thích ứng ra sao)- Sinan Aral - Tủ sách Hiểu Thực Tại
**Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Besh-Aral** là một khu bảo tồn thiên nhiên nằm tại tỉnh Jalal-Abad, phía tây Kyrgyzstan. Được thành lập vào năm 1979 và diện tích hiện tại là 112.018
**Aral** hay **Alaer** (, Hán Việt: **A Lạp Nhĩ**; là một thành phố cấp huyện của khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. Thành phố không trực thuộc địa khu nào và nằm trên sa
**Aral Moreira** là một đô thị thuộc bang Mato Grosso do Sul, Brasil. Đô thị này có diện tích 1656,185 km², dân số năm 2007 là 9224 người, mật độ 5,57 người/km².
**Sa mạc Aralkum** là một sa mạc mới xuất hiện từ năm 1960 trên khu vực đáy biển từng được phủ kín bởi biển Aral. Nó nằm ở phía nam và phía đông của những
Ngành truyền thông ở thế kỷ 20 và 21 đã tạo ra một “ma trận” phức tạp hơn bao giờ hết, với vô số dữ liệu chằng chịt không rõ thật giả và được ứng
**Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes** (, _Barsakelmes memlekettık tabiği qoryğy_) là khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên đảo Barsa-Kelmes của biển Aral, tỉnh Kyzylorda, Kazakhstan. Được thành lập vào năm 1939, khu bảo
Sông **Amu Darya** (còn gọi là _Amudarya_, _Amudar'ya_, - _Omudaryo_ hay _daryoi Omu_; - _Âmudaryâ_; , , với _darya_ (Pahlavi) nghĩa là biển hay sông rất lớn) là một con sông ở Trung Á. Chiều
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
thumb|Hòn đảo dần nhập vào lục địa vào giữa năm 2001. **Vozrozhdeniya** (tiếng Nga:**Остров Возрождения**, _Ostrov Vozrozhdeniya_, có thể dịch là **đảo Rebirth** hay **đảo Renaissance**) là một hòn đảo nằm trên biển Aral, thuộc
**Kyzylorda** (Kazakhstan: Қызылорда облысы, Qızılorda oblısı; Nga: Кызылординская область, Kyzylordinskaya Oblast), là một tỉnh của nước cộng hòa Kazakhstan, thủ phủ là thành phố Kyzylorda với dân số 157.400 người trên 590.000 là dân số
Cỗ Máy Thao Túng Cỗ máy thao túng: Mạng xã hội đã can thiệp vào cuộc sống của chúng ta như thế nào và chúng ta phải thích ứng ra sao Bằng những ví dụ
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
right **Qaraqalpaqstan** hay **Karakalpakstan** ( hay _Қарақалпақстан Республикасы_; hay ) là một nước cộng hòa tự trị thuộc Uzbekistan. Nó chiếm toàn bộ phần tây bắc của Uzbekistan. Thủ phủ là Nukus (tiếng Qaraqalpaq: No'kis
nhỏ|Bờ biển miền trung Chile thumb|upright=1.35|Một con sóng đánh vào bờ biển tại [[Vịnh Santa Catalina]] **Biển** nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hoặc là các
**Syr Darya** (; ; ; , chuyển tự _Syrdarya_ hay _Sirdaryo_) là một sông ở Trung Á, đôi khi còn gọi là **Jaxartes** hay **Yaxartes** từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại ὁ
nhỏ|phải|Một cái hồ nhìn từ trên xuống Hồ Nahuel Huapi, [[Argentina]] [[Hồ Baikal, hồ nước ngọt sâu nhất và lớn nhất theo thể tích]] **Hồ** là những khoảng nước đọng tương đối rộng và sâu
**Truật Xích** (; – ) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ. Tuy cuộc đời gắn liền với những tranh cãi và đồn thổi xung quanh hoàn cảnh sinh đẻ và thân thế
Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]] **Biển Tethys** hay **đại dương Tethys** là một đại dương trong
**Taras Hryhorovych Shevchenko** (tiếng Ukraina: Тарáс Григóрович Шевчéнко; 9 tháng 3 năm 1814 – 10 tháng 3 năm 1861) là Đại thi hào dân tộc, họa sĩ, viện sĩ, chiến sĩ đấu tranh vì dân
328x328px|nhỏ|phải|Các quốc gia nội lục theo _[[The World Factbook_. Màu đỏ chỉ quốc gia nội lục bị bao bọc bởi các quốc gia nội lục (Các quốc gia nội lục "kép"). Màu xanh chỉ các
**Binh đoàn Sản xuất và Xây dựng Tân Cương** (), tên khác là **Công ty Tập đoàn Tân Kiến Trung Quốc** (中国新建集团公司), Các binh đoàn kiến thiết được chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung
right|thumb|[[Cổ địa lý học đại dương Tethys trong Rupelia tuổi (33,9–28,4 triệu năm trước). Các đường màu đen biểu thị các đường bờ biển ngày nay.]] **Biển Paratethys**, **Đại dương Paratethys** hay chỉ là **Paratethys**
**Tranh khắc đá trên dãy Altay** là di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại tỉnh Bayan-Ölgii, Mông Cổ. Đây là các tác phẩm điêu khắc trên đá minh họa cho sự phát
Đây là danh sách các hòn đảo được phân chia bởi một hoặc nhiều biên giới quốc tế. ## Đảo biển ## Đảo hồ * _De facto_ giữa Nga (Crimea) (tranh chấp) với Ukraine **
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Siberia** (, ) là vùng đất rộng lớn gần như nằm trọn trong nước Nga, chiếm gần toàn bộ phần Bắc Á và bao gồm phần lớn thảo nguyên Á-Âu. Siberia trong lịch sử là
**Thiên Sơn** (, ; _Tjansan_; Thổ Nhĩ Kỳ cổ: **𐰴𐰣 𐱅𐰭𐰼𐰃**, _Tenğri tağ_; ; , _Tenger uul_; , Тәңри тағ, _Tengri tagh_; , _Teñir-Too/Ala-Too_, تەڭىر-توو/الا-توو; , **', تأڭئرتاۋ; , _Тян-Шан, Тангритоғ_, تيەن-شەن) còn được gọi
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
Hồ Erie, nhìn về phía nam từ dốc nông thôn cao gần [[Leamington, Ontario]] **Hồ Erie** (tiếng Pháp: _lac Érié_; tiếng Anh _Lake Erie_, phát âm như "I-ri"), kề cận về phía bắc với tỉnh
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
nhỏ|Lưu vực right|thumb|Ảnh hoạt hình lưu vực [[sông Latorița, Romania Tập tin:Modelare 3D pentru Bazinul Hidrografic al Paraului Latorita.gif|354x354px]] **Lưu vực** là phần diện tích bề mặt đất trong tự nhiên mà mọi lượng nước
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
Bản đồ biển Caspi, khu màu vàng chỉ vùng trũng Caspi. **Biển Caspi** là hồ nước lớn nhất trên thế giới tính về cả diện tích và thể tích. Diện tích mặt nước là 371.000
Theo sự phân chia hành chính ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì có ba cấp đô thị, cụ thể: trực hạt thị là thành phố trực thuộc trung ương đồng cấp với
**Tự nhiên** hay **thiên nhiên**, theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng
**Kazakhstan** (phiên âm tiếng Việt: _Ca-dắc-xtan_; tiếng Kazakh: Қазақстан Республикасы, _Qazaqstan Respublikasy_; tiếng Nga: Республика Казахстан, _Respublika Kazakhstan_), tên chính thức là **Cộng hòa Kazakhstan** là một quốc gia có chủ quyền trải rộng trên
**Kyrgyzstan** (phiên âm tiếng Việt_: "Cư-rơ-gư-xtan"_, tiếng Kyrgyz: Кыргызстан; tiếng Nga: Киргизия, tuỳ từng trường hợp còn được chuyển tự thành Kirgizia hay Kirghizia, đọc như _"Ki-rơ-ghi-zi-a"_) (đánh vần theo IPA: ), tên chính thức
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Diesel sinh học** là một loại nhiên liệu có tính chất tương đương với nhiên liệu dầu diesel nhưng không phải được sản xuất từ dầu mỏ mà từ dầu thực vật hay mỡ động
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Thị tộc Nogai** hay **Orda Nogai** (tiếng Nga: Ногайская Орда) – một thể chế nhà nước phong kiến của những người du mục trên vùng lãnh thổ từ phía bắc vùng ven biển Caspi và
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát